Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 32/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 32/2023/HS-ST NGÀY 27/06/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27/6/2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lai Châu là điểm cầu trung tâm xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai đến điểm cầu thành phần là Nhà tạm giữ Công an thành phố L, tỉnh Lai Châu vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 31/2023/TLST- HS ngày 18 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Quàng Văn K; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 12/02/1993 tại tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKHKTT: Bản N, xã N, huyện S, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông Quàng Văn S, sinh năm 1970 và bà Quàng Thị S, sinh năm 1970; Có vợ Lò Thị Phính, sinh năm 1994 và có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2015, con nhỏ nhất sinh năm 2017; Bị cáo có 04 anh em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Tiền án: không; Tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/02/2023 tại nhà tạm giữ Công an thành phố L Châu, tỉnh Lai Châu cho đến nay (Bị cáo có mặt tại điểm cầu thành phần).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Khoảng 18 giờ ngày 19/2/2023, K đi bộ từ Bến xe khách tỉnh Lai Châu theo hướng đi xã S, thành phố L, tỉnh Lai Châu đi tìm mua ma túy để sử dụng. Khi K đang đi trên đường 58m gần Khách sạn Ngân Hà thì gặp một người đàn ông nhìn giống người nghiện không rõ nhân thân, lai lịch, K hỏi mua ma túy với người này. Qua trao đổi mua bán, K đã mua được của người đàn ông nói trên 01 gói ma túy (loại Heroine) được gói bên ngoài bằng một mảnh nilon màu hồng với giá 200.000 đồng. Mua được ma túy, K cất vào trong chiếc mũ lưỡi trai màu đen đang đội trên đầu rồi đi tìm chỗ sử dụng. Khi K đang đi bộ trên đường phía cổng sau của khách sạn Ngân Hà thì bị tổ công tác Công an thành phố L kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ 01 gói ma túy có đặc điểm như trên vào hồi 18 giờ 30 phút cùng ngày 19/02/2023.

Kết luận giám định số 25/KLGĐ ngày 19/02/2023 của Người giám định tư pháp theo vụ việc lĩnh vực hình sự Công an thành phố L và Kết luận giám định số 206/KL- KTHS ngày 22/02/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận:

01 gói chất bột màu trắng thu giữ của Quàng Văn K trong quá trình bắt quả tang có tổng khối lượng là 0,15 gam (không phẩy mười lăm gam). Mẫu chất bột màu trắng gửi đến giám định là ma túy, loại Heroine.

Cáo trạng số 23/CT-VKSTP ngày 18/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lai Châu đã truy tố Quàng Văn K về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L giữ quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Quàng Văn K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Về hình phạt chính: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Quàng Văn K từ 12 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giam, ngày 19/02/2023.

- Hình phạt bổ sung: đề nghị hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự;

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị hội đồng xét xử tuyên: Tịch thu, tiêu hủy: 01 mảnh nilon màu hồng, 01 mũ lưỡi trai màu đen, viền mũ bọc da màu đen in logo có số 1996, 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng trong quá trình bắt quả tang.

- Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về Cáo trạng, các quyết định, kết luận tố tụng có trong hồ sơ vụ án.

Tại lời nói sau cùng bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của bản thân và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Hồi 18 giờ 30 phút ngày 19/02/2023 tại khu vực đường phía cổng sau của khách sạn Ngân Hà thuộc địa phận tổ 26, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lai Châu, Quàng Văn K đang tàng trữ trái phép 0,15 gam Heroine, mục đích để sử dụng thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L, tỉnh Lai Châu phát hiện bắt quả tang.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bị cáo Quàng Văn K là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn, ý thức được điều đó nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi của bị cáo Quàng Văn K có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Điều luật quy định:

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

………… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

.................

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Do vậy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lai Châu đã truy tố là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử thấy trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, đồng thời cần có một mức hình phạt phù hợp nhằm tiếp tục răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do thu nhập không ổn định mặt khác bị cáo còn phải chấp hành án phạt tù nên Hội đồng xét xử cần quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án:

- Đối với 0,15 gam Heroine Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L đã gửi toàn bộ đi giám định, sau giám định không hoàn lại mẫu vật nên không đặt vấn đề xem xét, giải quyết.

- 01 phong bì niêm phong làm bằng phong bì công văn của Công an thành phố L (theo hồ sơ bên trong là 01 mảnh nilon màu hồng, 01 mũ lưỡi trai màu đen, viền mũ bọc da màu đen in logo có số 1996, 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng trong quá trình bắt quả tang). Xét thấy, vật chứng trên là công cụ phạm tội, là vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lai Châu tại phiên tòa là có cơ sở, không oan sai, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Các vấn đề khác:

Quá trình điều tra bị cáo không biết nhân thân, lai lịch của người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo vào ngày 19/02/2023, ngoài lời khai của bị cáo không có tài liệu, chứng cứ khác nên không có căn cứ để xác minh, điều tra làm rõ.

[8] Về án phí Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự:

[1] Tuyên bố bị cáo Quàng Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

[2] Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Quàng Văn K 13 (mười ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam, ngày 19/02/2023.

[3] Về vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 mảnh nilon màu hồng, 01 mũ lưỡi trai màu đen, viền mũ bọc da màu đen in logo có số 1996, 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng trong quá trình bắt quả tang.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng hồi 08 giờ 30 phút ngày 23/5/2023 giữa Công an thành phố L, tỉnh Lai Châu và Chi cục thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lai Châu).

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân cấp trên.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 32/2023/HS-ST

Số hiệu:32/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lai Châu - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về