Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 32/2022/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 32/2022/HS-PT NGÀY 12/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 12/4/2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 19/2022/TLPT-HS ngày 02/3/2022 đối với bị cáo Phạm Văn Tr do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2022/HS-ST ngày 24/01/2022 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

Bị cáo: Phạm Văn Tr, sinh ngày 20 tháng 02 năm 1989 tại Gia Lai; Nơi ĐKNKTT: Buôn C, xã I, huyện K, tỉnh Gia Lai; Chỗ ở trước khi bị bắt: 523 đường T, quận T, thành phố Đà Nẵng; Trình độ văn hóa: 10/12; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn T, sinh năm 1954 và bà Võ Thị L, sinh năm 1959. Có vợ là Nguyễn Thị L, sinh năm 1998 và 01 con sinh năm 2014. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Năm 2006 bị Tòa án nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự theo Bản án số 05 ngày 07/12/2006.

- Năm 2008, bị Tòa án nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự, tổng hợp với 09 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” của Bản án số 05 ngày 07/12/2006 Tòa án nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 24 tháng tù, chấp hành xong năm 2009.

- Ngày 10/9/2010 bị Tòa án nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai xử phạt 24 tháng tù về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”, chấp hành xong năm 2012.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 21/9/2021. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 21/09/2021, Phạm Văn Tr điều khiển xe mô tô Winer màu xanh đen bạc biển số 81NI-202.97 đi đến bến xe Đà Nẵng tìm gặp và mua của một người thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) 01 gói ma túy đá với giá 200.000 đồng, sau khi đưa tiền thì người thanh niên đã chỉ cho Tr đến lề đường ở bến xe lấy 01 gói ma túy đá. Đến 19 giờ 30 phút cùng ngày khi Trung đang điều khiển xe mô tô đến khu vực ngã tư đường T và H, phường X, TP. Đà Nẵng thì bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy- Công an quận Thanh Khê phát hiện bắt quả tang, thu giữ gói ma túy trong túi quần sau bên phải (đã niêm phong ký hiệu G) cùng các tang vật khác có liên quan.

Kết quả thử test nước tiểu Phạm Văn Tr dương tính với chất ma túy.

Bản Kết luận giám định số: 234/GĐ - MT ngày 28/09/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: “Tinh thể màu trắng, niêm phong ký hiệu G gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine khối lượng mẫu G: 0,108 gam” .

Tang vật tạm giữ và xử lý:

+01 gói ni lông kích thước 03x03cm chứa chất tinh thể màu trắng theo Tr khai nhận là ma túy đá mục đích để sử dụng +01 xe mô tô hiệu Winer màu xanh BKS: 81N1-202.97.

+01 giấy chứng minh nhân dân số 230696233 mang tên Phạm Văn Tr;

+01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 016874 mang tên Phạm Văn Tr.

Tại Bản án sơ thẩm số 14/2022/HS-ST ngày 24/01/2022 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn Tr 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ bắt tạm gữ, tạm giam ngày 21/9/2021.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo bản án.

Ngày 27/01/2022, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê có Quyết định kháng nghị số 01/QĐ-VKS-TK với nội dung: Kháng nghị phần hình phạt đối với bị cáo Phạm Văn Tr tại Bản án sơ thẩm số 14/2022/HSST ngày 24/01/2022 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng; Đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng tăng mức hình phạt tù đối với bị cáo Phạm Văn Tr.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2022/HS-ST ngày 24/01/2022 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo Trung về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 249 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù là quá nhẹ, không tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân xấu của bị cáo và không đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa đối với loại tội phạm này. Do đó, đề nghị HĐXX chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, tăng mức hình phạt tù đối với bị cáo.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, xin HĐXX giữ nguyên quyết định về hình phạt của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 21/9/2021, tại ngã tư đường H và T, phường X, quận T, TP Đà Nẵng, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an quận Thanh Khê bắt quả tang Phạm Văn Tr có hành vi tàng trữ trái phép 0,108 gam ma túy loại Methamphetamine, nhằm mục đích sử dụng.

Vì vậy, Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2022/HSST ngày 24/01/2022 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê đã xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2]. Xét Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, HĐXX thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, có khung hình phạt từ 01 đến 05 năm tù; xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội tại địa phương.

Bị cáo Phạm Văn Tr có nhân thân xấu: Đã 03 lần bị xử lý hình sự về các tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, “Trộm cắp tài sản” và “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” vào các năm 2006, 2008, 2010. Mặc dù đã được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học, mà lại lao vào con đường nghiện ngập. Bản thân bị cáo đủ khả năng nhận thức được việc tàng trữ sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật hình sự, là tệ nạn của xã hội gây mất an ninh trật tự, ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của nòi giống, nhưng bị cáo vẫn phạm tội. Điều đó cho thấy ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo không tốt, lần phạm tội sau nghiêm trọng hơn lần phạm tội trước; trước khi bị phát hiện bắt quả tang lần này bị cáo đã từng mua ma túy về sử dụng trót lọt, là đối tượng nghiện ma túy, nên cần xử lý nghiêm khắc.

Xét Tòa án cấp sơ thẩm chỉ tuyên phạt bị cáo Phạm Văn Tr mức án 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là nhẹ, chưa phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh với loại tội phạm này. Do đó, HĐXX chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê xử tăng hình phạt đối với bị cáo.

[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4]. Bị cáo Phạm Văn Tr không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm a khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng nghị số 01/QĐ-VKS-TK ngày 27/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, sửa bản án sơ thẩm về phần quyết định hình phạt tù đối với bị cáo Phạm Văn Tr.

Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Phạm Văn Tr 02 (Hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam, ngày 21/9/2021.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 11 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo Phạm Văn Tr không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 32/2022/HS-PT

Số hiệu:32/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về