Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 321/2020/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 321/2020/HSST NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 308/2020/TLST – HS ngày 20 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 314/2020/QĐ - TA ngày 20 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn Đ, sinh năm 1987 tại Bắc Giang; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký NKTT và ở: Tổ dân phố số 1, phường T, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lái xe tự do; Con ông: Trần Văn T, sinh năm: 1963 (Tàn tật); Con bà: Hoàng Thị L, sinh năm: 1966; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Vợ: Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1991; Nội trợ và 03 con (Sinh năm 2014, 2017 và 2019); Tiền án, tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 563, do Công an quận Bắc Từ Liêm lập ngày 30/9/2020; Bị bắt quả tang ngày 24/9/2020, hủy bỏ biện pháp tạm giữ ngày 30/9/2020 Hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 23/9/2020, bị cáo Trần Văn Đ uống rượu với một nhóm gồm Bình (không rõ nhân thân) và ba người bạn của Bình tại khu vực đường Nguyễn Chánh, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Sau khi uống rượu xong, khoảng 22 giờ cùng ngày, tất cả vào nhà nghỉ gần đó sử dụng ma túy do một người cùng nhóm mang theo. Sử dụng xong, còn thừa một ít ketamine và một viên nén màu xám, bị cáo Đ gói lại vào trong tờ tiền có mệnh giá 2.000 đồng và bỏ vào chiếc ví da màu đen của bị cáo. Chiều ngày 24/9/2020, bị cáo gọi cho chị Nguyễn Thị Kim T (vợ của bị cáo) tới nhà nghỉ để đón bị cáo về. Hồi 14 giờ 15 phút, bị cáo điều khiển xe máy nhãn hiệu SYM biển kiểm soát 29D1 – 465.85 chở chị T đi đến khu vực đường Cầu Diễn thuộc tổ 8, phường Phúc Diễn, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội thì bị Tổ công tác Y12-141, Công an thành phố Hà Nội kiểm tra hành chính và bắt quả tang cùng vật chứng. Vật chứng thu giữ của bị cáo: Một túi nilon màu trắng kích thước 3x4cm, bên trong chứa chất bột màu trắng; Một túi nilong màu trắng kích thước 2x2cm bên trong chứa 01 viên nén màu xám có kích thước 1x1,5cm; Một tờ tiền mệnh giá: 2.000 đồng; Một ví da màu đen nhãn hiệu Gucci kích thước 20x25cm; Một xe máy nhãn hiệu SYM Shark màu đen BKS: 29D1 – 465.85, số khung: 000703, số máy: 000703; Một điện thoại Iphone 7 Plus màu hồng, mang sim số 0963.892.633.

Tại Kết luận giám định số 8593/KLGĐ – PC09 ngày 01/10/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma túy loại Ketamine, khối lượng: 0,126 gam; Một viên nén màu xám là ma túy loại MDMA, khối lượng: 0,605 gam.

Xét nghiệm tìm chất ma túy trong nước tiểu đối với bị cáo Đ cho kết quả dương tính-có sử dụng chất ma túy. Chị Nguyễn Thị Kim T không biết bị cáo Đ cất giấu ma túy nên không xử lý.

Chiếc xe mô tô nhãn hiệu SYM Shark màu đen BKS: 29D1 – 465.85, số khung: 000703, số máy: 000703 thu giữ của bị cáo Đ không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng, số khung, số máy là số nguyên thủy, đăng ký xe mang tên Long Quốc B; Địa chỉ: Tổ 2, phường N, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Công an phường N cung cấp không có người tên Long Quốc B ở địa chỉ trên. Cơ quan CSĐT Công an quận Bắc Từ Liêm đã đăng 03 tin trên báo tìm chủ sở hữu nhưng không có kết quả. Bị cáo Đ khai xe là tài sản của hai vợ chồng, được một người phụ nữ tên là H nhà ở khu vực Mỹ Đình, Nam Từ Liêm, Hà Nội (Không rõ nhân thân) cho vào đầu năm 2020 nhưng không viết giấy tờ tặng cho, không có giấy tờ xe. Bị cáo giao cho chị sử dụng xe đến khi bị bắt. Chị T khai là bị cáo Đ nói đây là xe mua của một người phụ nữ tên H với giá 20.000.000 đồng nhưng chị T không chứng kiến việc giao nhận, mua bán xe giữa bị cáo và người phụ nữ đó.

Tại Cáo trạng số 314/CT-VKS ngày 18/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm đã truy tố bị cáo Trần Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn Đ mức án từ 12 - 16 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Tịch thu tiêu hủy số ma túy và chiếc ví da đã thu giữ; Tịch thu sung quỹ tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng; Trả lại cho bị cáo Một xe máy nhãn hiệu SYM Shark màu đen BKS: 29D1 – 465.85; Một điện thoại Iphone 7 Plus màu hồng, số thuê bao 0963.892.633.

Căn cứ vào các tài liệu và chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ căn cứ xác định: Khoảng 14 giờ 15 phút ngày 24/9/2020, tại đường Cầu Diễn thuộc tổ 8, phường Phúc Diễn, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, bị cáo Trần Văn Đ đã tàng trữ trái phép 0,126 gam ma túy loại Ketamine và 0,605 gam ma túy loại MDMA thì bị bắt quả tang cùng vật chứng. Hành vi của bị cáo đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt áp dụng đối với bị cáo được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, xâm phạm đến sự độc quyền trong quản lí các chất gây nghiện của Nhà nước. Bị cáo biết ma túy loại Ketamine và MDMA bị cáo tàng trữ là chất gây nghiện, làm tổn hại sức khỏe con người đặc biệt là sức khỏe tâm thần, thể chất của người sử dụng, là mầm mống gây ra nhiều loại tội phạm và các bệnh xã hội khác. Nhà nước đã nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng bị cáo vẫn tàng trữ trái phép để sử dụng.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, lần đầu bị đưa ra xét xử, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính duy nhất trong gia đình. Đây là những tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Hình phạt chính: Đối với bị cáo cần áp dụng hình phạt tù, tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để đảm bảo tính giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Vật chứng vụ án: Số ma túy thu giữ của bị cáo là chất gây nghiện, bị nhà nước cấm lưu hành không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy. Chiếc ví da màu đen có kiểu dáng và mang nhãn hiệu Gucci bị cáo dùng để đựng ma túy không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng bị cáo dùng để gói ma túy liên quan đến tội phạm cần tịch thu sung quỹ. Chiếc xe máy nhãn hiệu SYM Shark màu đen BKS: 29D1 – 465.85, khi bị thu giữ, bị cáo đang quản lý, sử dụng, có số khung, số máy nguyên thủy, không có trong dữ liệu xe máy vật chứng, không liên quan đến tội phạm cần trả lại cho bị cáo. Chiếc điện thoại Iphone 7 Plus màu hồng, mang sim số 0963.892.633 thu giữ của bị cáo, không liên quan đến tội phạm cần trả lại cho bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, cơ quan điều tra, điều tra viên, cơ quan kiểm sát, kiểm sát viên đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các quyền nghĩa vụ của mình, giải quyết vụ án đúng thẩm quyền, đúng thời hạn, khởi tố, kết luận điều tra, truy tố theo đúng tội danh, khung hình phạt.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự

Xử phạt bị cáo Trần Văn Đ 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ đi thời hạn tạm giữ từ ngày 24/9/2020 đến ngày 30/9/2020.

3. Áp dụng Điều 46, 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí.

3.1. Tịch thu tiêu hủy một phong bì niêm phong bên trong có chứa ma túy đã giám định, bên ngoài có chữ ký giáp lai của bị cáo và giám định viên và một ví da có kiểu dáng và mang nhãn hiệu Gucci; Tịch thu sung quỹ tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng; Trả lại cho bị cáo một xe máy nhãn hiệu SYM Shark màu đen mang BKS: 29D1 – 465.85, số khung: 000703, số máy: 000703; Một điện thoại Iphone 7 Plus màu hồng, mang sim số 0963.892.633 (Chi tiết vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 46/21 ngày 25/11/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm) .

3.2. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 321/2020/HSST

Số hiệu:321/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về