Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2023/HS-ST

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY ĐỨC, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 31/2023/HS-ST NGÀY 31/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 40/2023/TLST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2023/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

Sầm văn T, sinh năm 1992, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Bon Đ, xã QT, huyện T, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 9/12; giới tính: Nam; dân tộc: Nùng; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Sầm Văn T2 và bà Hoàng Thị M; sinh năm 1969; có vợ là Hoàng Thị C; sinh năm 1992 và 02 con, con lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2015; Tiền án; tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 01/6/2023 sau đó chuyển tạm giam đến nay - có mặt.

Người có quyền lợi, và nghĩa vụ liên quan: Chị Dương Thị T1, sinh năm 1993; Địa chỉ: Bon Đ, xã QT, huyện T, tỉnh Đ; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 01/6/2023, Sầm Văn T điều khiển mô tô biển kiểm soát: 48K1-xxxxx từ bon Đ, xã QT đến xã ĐN, huyện T để mua ma túy. Khi đi đến khu vực bờ đập thuộc bản N, xã ĐN, T gặp một người thanh niên khoảng 30 tuổi (không rõ nhân thân, lai lịch), T nhờ người này mua giúp ma túy với số tiền 500.000 đồng, người này đồng ý, người thanh niên cầm tiền đi vào bản Ninh Hòa khoảng 30 phút sau quay lại đưa cho T một gói giấy (vỏ bao thuốc là War Horse) bên trong có chứa chất ma túy. Sau đó, T đi vào gốc cây điều gần bờ đập lấy một ít ma túy ra sử dụng, số ma túy còn lại T gói vào trong túi nilon màu hồng và dùng bật lửa hàn kín, cầm trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe về nhà. Khi đi đến đoạn đường bê tông đầu bản T, xã ĐN, huyện Đ thì bị lực lượng Công an huyện Đ phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng đã thu giữ gồm: 01 gói nilon màu hồng bên trong chứa chất rắn màu trắng nghi là Heroine, 01 ví da màu đen bên trong có số tiền 1.400.000 đồng, 01 chiếc xe mô tô màu vàng đen biển kiểm soát 48K1-xxxxx.

Tại Bản kết luận giám định số 206/KL-KTHS ngày 06/6/2023, của Phòng Kỹthuật hình sự Công an tỉnh Đ kết luận: Chất rắn màu trắng được đựng trong 01 gói nilon màu hồng được niêm phong trong bì thư gửi giám định là ma túy; loại Heroine, có khối lượng mẫu là 1,6643 gam (hoàn lại sau giám định là 1,6257 gam).

Tại Bản cáo trạng số 39/CT-VKS ngày 16 tháng 8 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Sầm Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Sau khi phân tích nội dung, tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX):

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51, Điều 38 của BLHS, xử phạt bị cáo Sầm Văn T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 của BLHS; điểm c khoản 2; điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), đề nghị: Tịch thu, tiêu huỷ 1,6257 gam ma tuý là Heroine (hoàn lại sau giám định); chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ trả lại 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 48K1-xxxxx cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Dương Thị T1; trả lại 01 ví da màu đen và số tiền 1.400.000 đồng cho bị cáo Sầm văn T do không liên quan đến việc phạm tội.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố và không trình bày lời bào chữa gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng17 giờ 30 phút ngày 01/6/2023, tại đoạn đường bê tông thuộc bản T, xã ĐN, huyện T, tỉnh Đ, lực lượng Công an huyện Đ phát hiện và bắt quả tang Sầm Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 1,6643 gam ma túy, là Heroine mục đích để sử dụng.

Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định:

“1.Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma tuý thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

… c) … Heroin có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

…”.

Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Đ truy tố bị cáo Sầm văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chế độ quản lý Nhà nước về việc cất giữ chất ma tuý; làm mất trật tự an ninh tại địa phương, gây nhiều hậu quả xấu cho bản thân, gia đình và xã hội. Vì vậy, bị cáo Sầm văn T phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[4]Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5]Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo Sầm văn T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS; HĐXX sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo, HĐXX xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[7] Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đề nghị mức án đối với bị cáo Sầm văn T là phù hợp, cần chấp nhận.

[8] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có tài sản gì, còn là hộ nghèo nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Sầm văn T. [9] Về vật chứng của vụ án:

[9.1] Đối với 1,6257 gam ma tuý, là Heroine (hoàn lại sau giám định) không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu huỷ.

[9.2] Đối với 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 48K1-xxxxx qua điều tra xác định chiếc xe trên là của chị Dương Thị T1; chị T1 mua lại chiếc xe trên của Sầm Văn T từ tháng 4 năm 2023 có giấy mua bán viết tay. Ngày 01/6/2023 T mượn lại chiếc xe trên để đi công việc sau đó đi mua ma túy; việc T sử dụng chiếc xe trên đi mua ma túy về sử dụng thì chị T1 không biết và T cũng không nói cho chị T1 biết. Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ đã trả lại chiếc xe trên cho chị T1 là phù hợp cần cấp nhận.

[9.3] Đối với 01 ví da màu đen và số tiền 1.400.000 đồng bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội vì vậy cần trả lại cho Sầm văn T.

[10] Đối với người thanh niên (không xác định được nhân thân lai lịch) đã mua ma tuý cho T, do không có căn cứ để xác minh nên không đề cập xử lý theo quy định.

[11] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Nhưng do gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo nên bị cáo được miễn toàn bộ án phí theo quy định của pháp luật.

[12]Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Sầm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Sầm Văn T 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ ngày 01/6/2023.

2.Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 BLHS; Điều 106 của BLTTHS:

Chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ trả lại 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 48K1-xxxxx cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Dương Thị T1.

Tịch thu, tiêu huỷ 1,6257 gam ma túy, là Heroine (hoàn lại sau giám định).

Trả lại 01 ví da màu đen và số tiền 1.400.000 đồng (Một triệu bốn trăm nghìn đồng) cho Sầm văn T.

(Đặc điểm vật chứng và số tiền đã chuyển theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/8/2023 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ).

3.Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23; khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Sầm Văn T.

4.Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án phần liên quan đến mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2023/HS-ST

Số hiệu:31/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Đức - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về