Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TH, TỈNH B

BẢN ÁN 31/2022/HS-ST NGÀY 10/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 Tháng 5 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Th mở phiên toà công khai xét xử sơ Thẩm vụ án hình sự Thụ lý số: 26/2022/TLST-HS ngày 15 Tháng 4 năm 2022. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2022/QĐXXST- HS ngày 20 Tháng 4 năm 2022 đối với:

Bị cáo: Đỗ Huy T, sinh năm 1982 Nơi cư trú: Thôn Đ, xã S, huyện Th, tỉnh B.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Tiến X (đã chết); Con bà: Vũ Thiết M, sinh năm 1953. Vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1983. Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2014. Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con Thứ 2. Tiền án, tiền sự: không Nhân Thân: + Tại bản án số 38/2011/HSST ngày 6/9/2011 của Tòa án nhân dân huyện TH xử phạt Đỗ Huy T 30 Tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định khoản 1 Điều 249 BLHS ( T đã chấp hành các quyết định của bản án. Đã được xóa án tích) + Năm 2020, Đỗ Huy T bị Áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, Thị trấn Theo quyết định số 110/QĐ-UBND ngày 05/10/2020 ( Đã chấp hành xong ngày 05/01/2021) Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/01/2022 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Th, tỉnh B. (Có mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 40 phút ngày 02 Tháng 01 năm 2022, tại khu vực ngã tư C Tộc địa phận Thôn C, Thị trấn H, huyện Th, tỉnh B, trong lúc tuần tra Công an Thị trấn H phối hợp với tổ công tác Công an huyện Th, tỉnh B phát hiện một đối tượng có biểu hiện vi phạm pháp luật nên yêu cầu kiểm tra. Tại đây, đối tượng tự khai tên Đỗ Huy T. T hành kiểm tra phát hiện, T giữ tại túi quần bò phía sau bên trái T đang mặc có 01 túi nilon màu trắng có viền kẻ màu xanh bên trong túi có chứa chất tinh Thể màu trắng và 01 viên nén hình tròn màu hồng. T khai đây là chất ma túy đá mua của một người đàn ông không quen biết ở khu vực xã L, huyện G, tỉnh B mục đích để sử dụng cho bản thân.

Ngoài ra, còn T giữ của T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A7 màu vàng đen bên trong lắp sim số 0968.515.696 và 086.5330040; số tiền 125.000 đồng và 01 xe mô tô nhãn hiệu SCR, biển kiểm soát 76 X8- 9056.

Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng Theo quy định sau đó bàn giao T cùng toàn bộ vật chứng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Th để giải quyết Theo Thẩm quyền.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Th, tỉnh B đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 15 - Trưng cầu Phòng kỹ Tật hình sự Công an tỉnh B giám định chất ma túy đối với số vật chứng T giữ của T.

Tại Kết luận giám định số 116/TBKQGĐ-PC09 ngày 04/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận:

+ Chất tinh Thể màu trắng bên trong 01 túi nilon màu trắng có viền kẻ màu xanh có khối lượng 0,1201 gam; là ma túy; Loại ma túy MeThamphetamin;

+ 01 viên nén hình tròn màu hồng bên trong 01 túi nilon màu trắng có viền kẻ màu xanh có khối lượng có khối lượng 0,1087 gam; là ma túy, loại ma túy MeThamphetamin.

MeThamphetamine là chất ma túy được quy định tại Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền cht”.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Th, qua đấu tranh bị can Đỗ Huy T khai nhận:

Bản thân T sử dụng ma túy từ năm 2011. Khoảng 12 giờ ngày 02/01/2022, T một mình điều khiển lấy xe mô tô nhãn hiệu SCR, Biển kiểm soát 76- X8 9056 từ nhà ở đi vào khu vực xã L, huyện G, tỉnh B để tìm mua ma túy. Đến nơi, T gặp một người đàn ông khoảng 30 tuổi không quen biết, qua nói chuyện T biết người này có ma túy nên hỏi “ Có đồ không? Để cho cái 1-1” (Tức là hỏi mua 100.000 đồng ma túy đá và 100.000 đồng ma túy ngựa”, người đàn ông này đồng ý, T đưa cho người đàn ông 200.000 đồng, người này cầm tiền rồi đưa lại cho T 01 túi nilon màu trắng viền kẻ màu xanh bên trong túi có chứa chất tinh Thể màu trắng và 01 viên nén hình tròn màu hồng. T cầm cất vào túi quần bò phía sau bên trái đang mặc rồi điều khiển xe đi về nhà. Khi đi đến đoạn ngã tư C, trong lúc dừng xe chờ đèn tín hiệu giao thông thì bị Công an Thị trấn H phối hợp với tổ công tác Công an huyện Th, tỉnh B kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang, T giữ vật chứng như trên.

Bản cáo trạng số: 29/CT-VKSTT ngày 13/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Th đã truy tố Đỗ Huy T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ” Theo điểm C khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Th giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Đỗ Huy T theo tội danh và điều luật đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đỗ Huy T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng: Điểm C Khoản 1 Điều 249, điểm S Khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đỗ Huy T từ 13 đến 19 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 02/01/2022. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong của Phòng PC 09 Công an tỉnh B. Bên ngoài phong bì có ghi “Mẫu vật còn lại sau giám định kèm theo kết luận giám định số 116/KLGĐMT-PC09 ghi ngày 04/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B.

Trả lại bị cáo T01 điện Thoại di động nhãn hiệu Oppo A7 màu vàng đen gắn sim số 0968.515.696 và 086.5330040; số tiền 125.000 đồng, nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm Theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà hôm nay, phần tranh luận sau khi nghe đại diện Viện Kiểm sát công bố bản luận tội đối với bị cáo. Bị cáo không có ý kiến gì với bản luận tội của Viện Kiểm sát mà chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được Thm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Th, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Th, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã Thực hiện đúng về Thẩm quyền, trình tự, Thủ tục Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan thi hành tố tụng, người thi hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh, Hội đồng xét xử nhận thấy: Tại phiên toà hôm nay bị cáo T khai nhận do bị nghiện ma túy nên ngày 02 Tháng 01 năm 2022, tại khu vực ngã tư C thuộc địa phận Thôn C, Thị trấn H, huyện Th, tỉnh B, T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,2288 gam ma túy, loại ma túy Methamphetamin mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang. Xét thấy lời khai của bị cáo là có căn cứ phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã T giữ, kết quả giám định, lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ thấy đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Đỗ Huy T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, đúng như bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đã xâm phạm trực tiếp tới chế độ độc quyền quản lý với các chất gây nghiện nói chung và ma tuý nói riêng của nhà nước. Bị cáo nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý bị pháp luật nghiêm cấm nhưng do là đối tượng nghiện hút, để thoả mãn cơn nghiện nên ngày 02/01/2022 bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và bị Công an bắt quả tang cùng vật chứng. Hành vi phạm tội của bị cáo chẳng những làm gia tăng tệ nạn nghiện hút trong cộng đồng dân cư mà còn gây mất trật tự trị an. Xét thấy cần xử lý nghiêm bằng luật hình mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân của bị cáo thì thấy: Tại bản án số 38/2011/HSST ngày 6/9/2011 của Tòa án nhân dân huyện Th xử phạt Đỗ Huy T 30 tháng tù về tội ‘Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Năm 2020, Đỗ Huy T bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, Thị trấn theo quyết định số 110/QĐ-UBND ngày 05/10/2020 (Đã chấp hành xong ngày 05/01/2021). T đã chấp hành xong các quyết định của bản án, quyết định và đã được xóa án tích, vì vậy chỉ tính là nhân thân đối với bị cáo. Do vậy cần phải có mức hình phạt tương xứng mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm S khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó khi lượng hình cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để Thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS có thể áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo, nhưng xét thấy bị cáo phạm tội là do bị nghiện ma tuý, mua về để sử dụng không nhằm mục đích T lợi nên cần miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

Liên quan trong vụ án này có người đàn ông đã bán ma túy cho T ở khu vực xã L, huyện G, tỉnh B. T khai không biết tên, tuổi, địa chỉ, cụ thể của người đàn ông này nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Th không có cơ sở để xác minh, làm rõ. Khi nào làm rõ được sẽ xem xét xử lý sau Theo đúng quy định của pháp luật.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu SCR- Biển kiểm soát 76- X8 9056 Tộc quyền sở hữu hợp pháp của chị Đỗ Thị Hồng Y, sinh năm 1979 (Là chị gái của Đỗ Huy T), trú tại: Phường Ch, Thành phố Q, tỉnh Q. Chị Y giao chiếc xe trên cho mẹ đẻ là bà Vũ Thiết M, sinh năm 1953, trú tại: Thôn Đ, xã S, huyện Th, tỉnh B sử dụng. Ngày 02/01/2022, T tự ý lấy xe đi mua ma túy về để sử dụng, bà Mai không biết. Vì vậy, ngày 21/01/2022, cơ quan CSĐT Công an huyện Th trả lại chiếc xe trên cho bà M là phù hợp.

[3]. Về vật chứng: 01 phong bì niêm phong của Phòng PC 09 Công an tỉnh B. Bên ngoài phong bì có ghi “Mẫu vật còn lại sau giám định kèm theo kết luận giám định số 116/KLGĐMT-PC09 ghi ngày 04/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B là vật chứng của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A7 màu vàng đen gắn sim số 0968.515.696 và 086.5330040; số tiền 125.000 đồng là của T không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo là phù hợp. Nhưng cần tạm giữ để đảm bảo Thi hành án Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106, Điều 136 và Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Huy T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” Xử phạt: Đỗ Huy T 13 (Mười ba) Tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 02/01/2022. Tạm giam bị cáo 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (10/5/2022)

2. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong của Phòng PC 09 Công an tỉnh B. Bên ngoài phong bì có ghi “Mẫu vật còn lại sau giám định kèm Theo kết luận giám định số 116/KLGĐMT-PC09 ghi ngày 04/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B.

Trả lại bị cáo Đỗ Huy T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A7 màu vàng đen gắn sim số 0968.515.696 và 086.5330040; số tiền 125.000 đồng, nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/4/2022 giữa Công an huyện Th và Chi cục thi hành án dân sự huyện Th).

3. Về án phí: Bị cáo Đỗ Huy T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

306
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2022/HS-ST

Số hiệu:31/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tủa Chùa - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về