Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 311/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 311/2022/HS-ST NGÀY 18/11/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18/11/2022, tại Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 311/2022/TLST-HS ngày 31/10/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 312/2022/QĐXXST-HS ngày 03/11/2022 đối với bị cáo: Họ và tên: Đoàn Công Q (Tên gọi khác: Đoàn Văn Q) - Sinh ngày: 21/8/1993, tại: Hà Nội.

Nơi cư trú: Thôn T, xã B, huyện V, thành phố Hà Nội.

Giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không;

trình độ học vấn: 08/12; nghề nghiệp: Không; con ông Đoàn Công T - Sinh năm:

1962 và bà Nguyễn Thị T1 - Sinh năm: 1966, địa chỉ: Thôn H, xã Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; có vợ là Trần Thị Tuyết L, sinh năm 1997, con là Đoàn Thị Bảo A, sinh năm 2014.

Tiền án, tiền sự: Có 03 tiền án.

- Ngày 24/02/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm tuyên phạt 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại bản án số 51/2012/HSST.

- Ngày 24/12/2014, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm tuyên phạt 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tại bản án số 352/2014/HSST.

- Ngày 23/11/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm tuyên phạt 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại bản án số 78/2016/HSST.

Ngày 19/9/2022, bị bắt, tạm giữ, tạm giam cho đến nay, hiện có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Ông Đặng Văn T2 – Sinh năm: 1999, địa chỉ: Số H, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

2. Ông Nguyễn Văn T3 – Sinh năm: 1995, địa chỉ: Số H, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đoàn Công Q là đối tượng nghiện ma túy đá (Methamphetamine), đã có 03 tiền án chưa được xóa án tích. Khoảng 21 giờ, ngày 19/9/2022, Q sử dụng tài khoản Zalo tên “K” trong điện thoại di động hiệu Realme, gắn sim số 0946.097.xxx liên lạc với một người nam giới có tài khoản Zalo “Ông K” hỏi mua 1.100.000 đồng ma túy đá để sử dụng thì người này đồng ý và hẹn giao ma túy tại khu vực trước số nhà 115 đường N. Sau đó, Q đón xe dịch vụ Grap (không rõ nhân thân, lai lịch của chủ xe) đi đến điểm hẹn thì gặp một nam thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) đi xe mô tô (không rõ biển kiểm soát) đến giao cho Q 01 gói nylon chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng. Q trả cho người này 1.100.000 đồng rồi cất giấu ma túy trong người. Khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, khi Q đang đứng đợi xe Grap để đi tìm nơi sử dụng ma túy thì bị Công an phường T, thành phố B kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang. Thu giữ trong túi áo bên trái của Q đang mặc 01 gói nylon chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (đã được niêm phong theo quy định của pháp luật).

Tại bản Kết luận giám định số 940/KL- KTHS ngày 26/9/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận:

Chất rắn dạng tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) gói nylon được niêm phong gửi giám định là Ma túy, có khối lượng 0,9188 gam, loại Methamphetamine.

Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,8818 gam Methamphetamine đã được niêm phong.

Tại Cáo trạng số 322/CT-VKS ngày 28/10/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Đoàn Công Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa, bị cáo Đoàn Công Q thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và đúng theo nội dung Cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát đã công bố.

Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Đoàn Công Q từ 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng đến 06 (Sáu) năm tù.

- Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Đối với 0,8818 gam Methamphetamine còn lại sau giám định trong gói niêm phong số 940/KL- KTHS ngày 26/9/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk là tang vật của vụ án cần đề nghị tịch thu, tiêu hủy.

Đề nghị tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Realme C21-Y, số IMEI 1: 860666054207037, IMEI 2: 860666054207029, gắn sim số 0946.097.xxx, là phương tiện bị cáo sử dụng để phạm tội.

Các vấn đề khác đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận như nội dung đã nêu tại bản Cáo trạng.

Bị cáo không tranh luận nội dung gì, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Đoàn Công Q đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với các tình tiết như bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án về thời gian địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định: Khoảng 22 giờ 30 phút, ngày 19/9/2022, tại khu vực trước số nhà 115 N, phường T, thành phố B. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện, bắt quả tang Đoàn Công Q (đã có 03 tiền án chưa được xóa án tích) có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trong túi áo khoác bên trái Q đang mặc 01 (một) gói nylon bên trong chứa chất ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,9188 gam. Do đó, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Đoàn Công Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 BLHS là có căn cứ và đúng pháp luật. Cụ thể:

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. “Người nào tàng trừ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

…… c) Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

…….

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

…… o) Tái phạm nguy hiểm.” Bị cáo có đủ năng lực hành vi dân sự để nhận thức được ma túy là chất gây nghiện, làm hủy hoại sức khỏe con người, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội, dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật về hình sự tại địa phương, nhưng do ý thức coi thường pháp luật, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, xâm phạm sự thống nhất quản lý ma túy của Nhà nước. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét, cân nhắc và áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả phạm tội đã thực hiện, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

[3] Về tiền án, tiền sự: Bị cáo Đoàn Công Q có 03 tiền án vào các năm 2012, 2014 và 2016 về các tội “Trộm cắp tài sản; Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những nhận định trên, HĐXX xét thấy bị cáo Đoàn Công Q có nhân thân xấu, tuy nhiên không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân mà còn tiếp tục phạm tội, vì vậy cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một khoảng thời gian mới có đủ điều kiện và thời gian cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[6] Các biện pháp tư pháp:

- Về xử lý vật chứng:

Tịch thu, tiêu huỷ đối với 0,8818 gam Methamphetamine còn lại sau giám định trong gói niêm phong số 940/KL- KTHS ngày 26/9/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, là tang vật của vụ án.

Tịch thu sung ngân sách Nhà Nước 01 điện thoại di động hiệu Realme C21- Y, số IMEI 1: 860666054207037, IMEI 2: 860666054207029, gắn sim số 0946.097.xxx, là phương tiện bị cáo sử dụng để phạm tội.

[7] Các vấn đề khác:

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Q, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo, là phù hợp.

Đối với nguồn ma túy, bị cáo khai nhận mua của một người nam giới có tài khoản Zalo “Ông K”, một nam thanh niên đến giao ma túy và người đàn ông chạy xe dịch vụ Grap chở Q đi mua ma túy. Hiện Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch của những các đối tượng nên tách hành vi của các đối tượng ra khỏi vụ án để xác minh làm rõ, xử lý sau, là phù hợp.

[8] Về án phí: Bị cáo Đoàn Công Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Công Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Đoàn Công Q: 06 (Sáu) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ, tạm giam, ngày 19/9/2022.

[2] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Tịch thu, tiêu huỷ đối với 0,8818 gam Methamphetamine còn lại sau giám định trong gói niêm phong số 940/KL- KTHS ngày 26/9/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk.

Tịch thu sung ngân sách Nhà Nước 01 điện thoại di động hiệu Realme C21- Y, số IMEI 1: 860666054207037, IMEI 2: 860666054207029, gắn sim số 0946.097.xxx.

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Đoàn Công Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 311/2022/HS-ST

Số hiệu:311/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về