Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 309/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN H, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 309/2022/HS-ST NGÀY 25/11/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 25 tháng 11 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận H xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 289/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 285/2022/QĐXXST-HS ngày 14/11/2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Ngọc M, sinh năm 1991; tên gọi khác: không; Giới tính: Nữ; HKTT: 195B MK, phường MK, quận H, thành phố Hà Nội. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo, đảng phái: không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Lê Thanh H, sinh năm 1965; con bà: Nguyễn Thị P, sinh năm 1966; Anh, chị, em ruột: có 2 người, bị cáo là lớn; Chồng, con: chưa có; Danh chỉ bản số 665 lập ngày 19/8/2022 tại Công an quận H.

- Tiền án, tiền sự: không;

*Nhân thân: Ngày 13/10/2018 đi cai nghiện tự nguyện 06 tháng tại cơ sở cai nghiện ma túy số 2, thành phố Hà Nội.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/8/2022 đến nay tại Trại tạm giam số 2- Công an TP. Hà Nội. (Bị cáo có mặt tại Pên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại Pên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 10/8/2022, Lê Ngọc M trú tại: 195B MK, phường MK, quận H, Hà Nội đang ngồi ở quán internet khu vực quận H (không rõ địa chỉ cụ thể) đăng nhập mạng facebook vào trang "Hội Đồng Phê" để tìm mua ma túy đá sử dụng. Sau đó, M tìm thấy một tài khoản facebook "Long P” và nhắn tin hỏi: "Bạn có bán nước không" (“nước” là ma túy đá). Người có tài khoản "Long P” trả lời "có", đồng thời gửi ảnh túi ma túy đá cho M và nói: Nếu gặp ở quận H thì sẽ cho M túi ma túy đá này về dùng thử, nếu ngon thì lần sau sẽ bán cho M. Sau đó tài khoản "Long P" nhắn cho M số điện thoại 0985.486.301 giới thiệu là người bán ma túy đá, M đã gửi lại số điện thoại của mình (số 0855.805.xxx) cho người này. Một lúc sau, người có tài khoản "Long P” gọi vào số máy của M từ số 0985.486.301 chỉ dẫn cho M đến đường HĐH (đoạn đối diện số nhà 02-TT16, KĐT VP, phường P, quận H) ở đó có 01 tủ kính và trên nóc tủ để 01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có ma túy đá. Nghe vậy, M đi xe ôm từ quán internet đến địa chỉ theo chỉ dẫn của người có tài khoản “Long P”. Đến nơi, M quan sát thấy ở trên nóc tủ kính có 01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng và đến cầm bao thuốc lá này, kiểm tra bên trong có 01 túi nilong màu trắng chứa ma túy đá, M cầm túi ma túy đá ở tay và vứt bỏ vỏ bao thuốc lá, sau đi tìm nơi sử dụng. Khoảng 16 giờ cùng ngày, khi M đang ở khu vực đối diện số nhà 02-TT16, KĐT VP, phường PL, thì bị tổ công tác Công an phường PL, quận H nghi vấn phạm tội nên đã tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra đã phát hiện thu giữ trong lòng bàn tay trái của M 01 túi nilong KT: (2x2,5)cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng, M khai là ma túy đá (niêm phong ký hiệu M1); đồng thời M còn tự lấy ra giao nộp cho công an 01 vỏ bao thuốc lá bên trong có 01 túi nilong KT: (4x6)cm chứa chứa tinh thể màu trắng (ma túy đá) để trong túi xách màu đen đeo trên người (niêm phong ký hiệu M2). Công an phường PL đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lê Ngọc M, đồng thời thu giữ 01 điện thoại Nokia màu đen, sim số 0855.805.xxx, 01 túi xách có quai đeo màu đen và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng của M đưa cùng 02 gói niêm phong về trụ sở.

Ngày 10/8/2022, Cơ quan điều tra đã ra quyết định trưng cầu giám định gói niêm phong thu giữ của Lê Ngọc M ở trên. Tại bản kết luận giám định số 5640/KL-KTHS ngày 17/8/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP. Hà Nội, kết luận:

“- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông (ký hiệu M1) là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 0,264 gam.

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông (để trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long, ký hiệu M2) không tìm thấy chất ma túy, khối lượng: 2,543 gam”.

Tại Cáo trạng số 286/CT-VKS-HĐ ngày 04 tháng 11 năm 2022, của Viện kiểm sát nhân dân quận H truy tố Lê Ngọc M về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại Pên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình;

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận H duy trì quyền công tố: Sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/8/2022.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về tang vật của vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì ký hiệu M1 và M2 niêm phong dán kín, các mép dán có chữ ký của đối tượng Lê Ngọc M, cán bộ Công an Đỗ Mạnh Cường và giám định viên Trần Ngọc Chinh; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, 01 túi xách quai đeo màu đen; tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại Nokia màu đen lắp sim số 0855805xxx.

Lời nói sau cùng bị cáo ăn năn hối cải, đề nghị HĐXX xem xét giảm hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại Pên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Cơ quan điều tra Công an quận H, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận H trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại Pên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi hoặc quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và định khung hình phạt: Lời khai của bị cáo tại Phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai người làm chứng, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có cơ sở kết luận:

Bị cáo M là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 16 giờ ngày 10/8/2022, tại khu vực đường Hoàng Đôn Hòa đối diện nhà số 02-TT16, KĐT Văn Phú, phường PL, quận H, thành phố Hà Nội, Lê Ngọc M có hành vi nhận và mang theo người để sử dụng trái phép 01 túi ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,264 gam, chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường PL, quận H phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng. Quá trình kiểm tra M còn tự giao nộp 01 túi chứa tinh thể màu trắng khác (để trong túi xách đeo trên người), giám định không tìm thấy chất ma túy, có khối lượng 2,543 gam.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận H truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất vụ án, hình phạt và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự tại địa phương, xâm phạm tới độc quyền quản lý biệt dược của Nhà nước. Ma túy là chất gây nghiện, nó làm ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe người sử dụng, nó hủy hoại nhân cách con người, là nguyên nhân dẫn đến tan vỡ hạnh phúc gia đình, và còn là nguyên nhân dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy pháp luật Nhà nước ta kiên quyết loại trừ ma túy ra khỏi đời sống xã hội, xử lý nghiêm khắc đối với tội phạm về ma túy.

Bị cáo là người trưởng thành, có nhận thức và khả năng làm chủ bản thân, buộc bị cáo phải nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật và nhận thức được tác hại của ma túy nhưng bị cáo vẫn cố tình vi phạm. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời để răn đe, phòng ngừa chung.

Khi lượng hình, Hội đồng xét xử có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, do đó được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo yên tâm cải tạo, phấn đấu trở thành công dân có ích.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có việc làm, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án đã bàn giao cho Chi cục Thi hành án dân sự quận H:

01 phong bì thư niêm phong dán kín, các mép dán có chữ ký của đối tượng Lê Ngọc M, cán bộ Công an Đỗ Mạnh Cường và giám định viên Trần Ngọc Chinh (M1); 01 phong bì thư dán kín, các mép dán có chữ ký của đối tượng Lê Ngọc M, cán bộ Công an Đỗ Mạnh Cường và giám định viên Trần Ngọc Chinh (M2); 01 túi xách có quai đeo màu đen; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng đều là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen, có lắp sim số 0855805xxx thu giữ của bị cáo do dùng vào việc phạm tội, nên tịch thu sung quỹ Nhà nước;

[6] Về nguồn gốc 02 gói ma túy thu giữ của Lê Ngọc M, M khai: 01 túi cầm ở tay là nhận ở nơi chỉ dẫn của người có tài khoản facebook “Long P” (không rõ là ai). Còn 01 túi (để trong túi xách) M khai mua của người phụ nữ không quen biết tại khu vực đường PVĐ, phường CN 1, quận B, Hà Nội vào ngày 09/8/2022 giá 1.400.000 đồng về để sử dụng, đã lấy một ít ra sử dụng nhưng kết quả giám định không phải là ma túy. Ngoài lời khai của M không có tài liệu nào chứng minh, nên không đủ cơ sở kết luận xử lý trong vụ án.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 45; 46; 106; 136; 260; 268; 269; 299; 326; 327; 329; 331; 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Toà án;

1- Về tội danh:

Tuyên bố: Bị cáo Lê Ngọc M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2- Điều luật áp dụng và hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Lê Ngọc M 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/8/2022.

3- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, - Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong dán kín, các mép dán có chữ ký của đối tượng Lê Ngọc M, cán bộ Công an Đỗ Mạnh Cường và giám định viên Trần Ngọc Chinh (M1); 01 phong bì thư dán kín, các mép dán có chữ ký của đối tượng Lê Ngọc M, cán bộ Công an Đỗ Mạnh Cường và giám định viên Trần Ngọc Chinh (M2); 01 túi xách có quai đeo màu đen; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen, có lắp sim số 0855805xxx;

(Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15 tháng 11 năm 2022 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận H và Chi cục thi hành án dân sự quận H).

4- Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5- Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 309/2022/HS-ST

Số hiệu:309/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Nguyên - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về