Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 309/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 309/2021/HS-ST NGÀY 01/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 01 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 304/2021/TLST- HS ngày 29-10-2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 304/2021/QĐXXST-HS ngày 18-11-2021, đối với bị cáo:

Họ tên: Bùi Đặng T - sinh năm 1984 tại: Hải Phòng; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã D, huyện B, thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Số 13/283 đường B, phường H, thành phố Đ, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Đặng D và bà Phạm Thị C; có vợ Trần Thị N và 05 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 24-4-2013 Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt 30 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17-8-2021, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 26-8-2021 cho đến nay Nhà tạm giữ Công an thành phố Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Trần Thị N, sinh năm 1986; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã D, huyện B, thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Số 13/283 đường B, phường H, thành phố Đ, tỉnh Nam Định. Có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Anh Trần Thế V, anh Trần Đình Đ (không triệu tập tới phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 17-8-2021, tổ công tác Công an phường Mỹ Xá, thành phố Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực ven sông Đào, tổ 1 Đò Quan, xã Nam Phong, thành phố Nam Định phát hiện Bùi Đặng T đang điều khiển xe máy biển kiểm soát: 15K1-217.92 một mình có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, T tự giác giao nộp từ trên tay trái của T cho tổ công tác 01 gói nilong màu đen. Tổ công tác đã thu giữ, mở kiểm tra bên trong có 05 gói nhỏ đều được gói bằng giấy bạc màu trắng, bên trong đều có chứa chất bột dạng cục màu trắng (T khai là 05 gói Heroine vừa mua để sử dụng). Tổ công tác đã niêm phong vật chứng, đưa T và mời người làm chứng về trụ sở Công an phường Mỹ Xá, thành phố Nam Định lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, tổ công tác còn thu giữ của T 01 xe máy biển kiểm soát: 15K1-217.92 (đã cũ).

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã trưng cầu giám định vật chứng thu giữ. Tại bản kết luận giám định số 1136/GĐKTHS ngày 20-8-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng trong 05 gói nhỏ được gói bằng giấy bạc màu trắng thu giữ của Bùi Đặng T được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại chất ma túy là Heroine, có khối lượng 0,367 gam (không phẩy ba sáu bảy gam).

Tại cơ quan điều tra, Bùi Đặng T khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, đồng thời khai nhận về nguồn gốc gói ma túy như sau: Khoảng 11 giờ 05 phút ngày 17-8-2021, Bùi Đặng T điều khiển xe máy biển kiểm soát: 15K1-217.92 một mình từ nhà đến khu vực ven sông Đào, tổ 1 Đò Quan, xã Nam Phong, thành phố Nam Định mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Tuân gặp và mua của một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) đang đứng ở đường ven sông 05 gói ma túy với giá 250.000 đồng. T cầm số ma túy vừa mua trên tay trái rồi điều khiển xe máy đi được một đoạn thì bị phát hiện, bắt giữ như đã nêu trên.

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Bùi Đặng T, hiện tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau.

Bản cáo trạng số 306/CT-VKSTPNĐ ngày 28-10-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố bị cáo Bùi Đặng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Bùi Đặng T khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng như đã nêu trên. Đồng thời, bị cáo khai nhận về nguồn gốc chiếc xe máy biển kiểm soát: 15K1-217.92 là tài sản riêng của chị Trần Thị N (vợ bị cáo), chị N mua chiếc xe máy này bằng tiền tiết kiệm riêng của chị và chị N cũng là người đứng tên sở hữu chiếc xe.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Trần Thị N trình bầy: Nguồn gốc chiếc xe máy biển kiểm soát: 15K1-217.92 là tài sản riêng của chị, chị mua chiếc xe máy này bằng tiền tiết kiệm riêng và chị cũng đứng tên sở hữu chiếc xe. Chị không biết việc bị cáo Bùi Đặng T sử dụng chiếc xe này đi mua ma túy.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo Bùi Đặng T tại phiên tòa thể hiện hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bùi Đặng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Bùi Đặng T từ 15 tháng tù đến 21 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo; Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ;

trả lại cho chị Trần Thị N chiếc xe máy biển kiểm soát: 15K1-217.92.

Bị cáo Bùi Đặng T nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Bùi Đặng T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo Bùi Đặng T phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án nên có đủ cơ sở xác định: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 17-8-2021, Bùi Đặng T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,367 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang tại khu vực đường ven sông Đào, tổ 1 Đò Quan, xã Nam Phong, thành phố Nam Định. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, khối lượng Heroine bị cáo tàng trữ là 0,367 gam nên bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Bùi Đặng T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về hình phạt: Xét bị cáo Bùi Đặng T là đối tượng có nhân thân xấu, bị cáo đã 01 lần bị đưa ra xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để ăn năn hối cải mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội thể hiện bản chất coi thường pháp luật. Tuy nhiên, bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử chỉ xử phạt bị cáo ở mức thấp của khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Bùi Đặng T tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng trong vụ án như sau:

Số ma túy đã thu giữ của bị cáo Bùi Đặng T là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Chiếc xe máy biển kiểm soát: 15K1-217.92 (đã cũ) là tài sản của chị Trần Thị N, xét không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử sẽ trả lại chiếc xe máy này cho chị Trần Thị N.

[7] Về án phí: Bị cáo Bùi Đặng T bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Đặng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Bùi Đặng T 01 năm 03 tháng tù (một năm ba tháng tù).

Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 17-8-2021.

2. Xử lý vật chứng:

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của bị cáo Bùi Đặng T.

Trả lại cho chị Trần Thị N chiếc xe máy biển kiểm soát: 15K1-217.92 (đã cũ).

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhân vật chứng ngày 02-11- 2021).

3. Án phí:

- Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016.

Bị cáo Bùi Đặng T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Bị cáo Bùi Đặng T; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Trần Thị N được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 309/2021/HS-ST

Số hiệu:309/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:01/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về