TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO BẰNG, TỈNH CAO BẰNG
BẢN ÁN 30/2024/HS-ST NGÀY 05/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 05 tháng 3 năm 2024 tại điểm cầu trung tâm - Phòng xét xử Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng, điểm cầu thành phần - Phòng hỏi cung số 1, Nhà tạm giữ Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 22/2024/HSST ngày 05 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2024/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:
Nguyễn Trọng Đ - sinh ngày 25 tháng 7 năm 1989 tại huyện K, tỉnh Hưng Yên; Nơi thường trú: thôn Q, xã P, huyện K, tỉnh Hưng Yên; nơi ở hiện tại: tổ A, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ1 - sinh năm 1965 và bà Nguyễn Hồng Đ2 - sinh năm 1965; có vợ là Phạm Thị X - sinh năm 1991 và 01 con sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2023, hiện đang giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố C, tỉnh Cao Bằng; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 12 giờ 50 phút ngày 15/12/2023 tổ công tác Công an phường S, thành phố C phối hợp với đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thành phố C đang làm nhiệm vụ tại khu vực tổ A, phường S, thành phố C thì phát hiện Nguyễn Trọng Đ, sinh năm 1989 (nơi ở hiện tại: tổ A, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng) có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy nên tiến hành kiểm tra, phát hiện, thu giữ 01 (Một) gói nilon trong suốt có khóa vuốt màu đỏ bên trong có 02 (Hai) viên nén màu xanh. Nguyễn Trọng Đ khai nhận viên nén màu xanh bị thu giữ là ma túy tổng hợp của Đ.
Cùng ngày, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C đã tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng vật chứng thu giữ của Nguyễn Trọng Đ có tổng khối lượng là 0,56g (Không phẩy năm sáu gam).
Bản kết luận giám định số 10/KL-KTHS ngày 22/12/2023 của Phòng K Công an tỉnh C kết luận: 02 (Hai) mẩu viên nén màu xanh bên trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: MDMA.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa Nguyễn Trọng Đ khai nhận: khoảng 22 giờ 30 phút ngày 09/12/2023 Đ đi taxi từ phòng trọ thuộc tổ A, phường S, thành phố C đến khu vực gần quán R thuộc tổ A, phường S, thành phố C để nghe nhạc. Khi đến gần quán Đ gặp một người đàn ông (không biết tên, tuổi, địa chỉ) đến mời Đ mua ma túy, Đại đồng ý mua 01 (Một) viên dùng thử với giá 350.000đ (Ba trăm năm mươi nghìn đồng) nhưng người đó không có tiền bù nên đã mua 02 (Hai) viên với số tiền 700.000đ (Bảy trăm nghìn đồng), người đàn ông cầm tiền rồi đưa lại cho Đ 01 (Một) túi nilon trong suốt có khóa vuốt màu đỏ, bên trong có 02 (Hai) viên nén màu xanh. Đ cầm lấy gói ma túy, cất vào trong người rồi đón taxi đi về phòng trọ. Tại phòng trọ Đ lấy một nửa viên ra sử dụng cho bản thân, số còn lại cất lại túi nilon. Đến khoảng 12 giờ 30 phút ngày 15/12/2023, Đ mang gói ma tuý theo người thì bị phát hiện, bắt quả tang.
Bản cáo trạng số 31/CT-VKSTP ngày 02/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Trọng Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Trong phần tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Trọng Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và trình bày quan điểm về nguyên nhân phạm tội, hướng giải quyết vụ án như sau: Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức rõ ma túy là vật cấm tàng trữ, lưu hành nhưng vẫn cố ý mua ma túy về sử dụng để thỏa mãn tính tò mò của bản thân. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội nên cần xử lý nghiêm khắc và việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định là cần thiết, tuy nhiên quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, nên đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng của vụ án: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy vật chứng là ma túy và các vật chứng không còn giá trị sử dụng.
Bị cáo nhất trí với kết luận của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng về tội danh, hành vi phạm tội, mức hình phạt và quan điểm xử lý vật chứng nên không có ý kiến tranh luận.
Khi được nói lời sau cùng, bị cáo rất ăn năn hối cải về hành vi của mình, mong muốn Hội đồng xét xử xem xét được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, làm người có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội: Lời khai của bị cáo Nguyễn Trọng Đ phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Cụ thể như: biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường S lập hồi 13 giờ 00 phút ngày 15/12/2023 và vật chứng thu giữ.
Qua nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử nhận định có đủ căn cứ chứng minh vào hồi 12 giờ 50 phút ngày 15/12/2023 tại khu vực tổ A, phường S, thành phố C, Công an phường S phối hợp với tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thành phố C bắt quả tang Nguyễn Trọng Đ đang tàng trữ 0,56g (Không phẩy năm sáu gam) ma túy, loại MDMA để sử dụng cho bản thân.
Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về ma túy. Khi thực hiện hành vi, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ tác hại của ma túy nhưng do xem thường pháp luật nên đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng truy tố bị cáo Nguyễn Trọng Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a, ...
c, H, C, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
...
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
[3]. Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đi ngược lại chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong cuộc đấu tranh đẩy lùi và bài trừ tệ nạn ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội nên cần xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác, đồng thời phục vụ công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm ma túy ở địa phương.
Nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự .
Tình tiết giảm nhẹ: trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội nên khi quyết định hình phạt cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tình tiết tăng nặng: không có.
[4]. Hình phạt chính: Căn cứ hành vi phạm tội, nhân thân cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy, mặc dù bị cáo mua ma túy để sử dụng nhằm thỏa mãn tính tò mò của bản thân nhưng khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ là không nhỏ, nên cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mới có tác dụng cải tạo, giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[5]. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[6]. Về xử lý vật chứng:
Căn cứ quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xét thấy cần tịch thu tiêu hủy vật chứng là ma túy vì là vật bị cấm tàng trữ, lưu hành và các vật chứng không còn giá trị sử dụng.
[7]. Các nhận định khác:
Đối với nguồn gốc số ma túy, Nguyễn Trọng Đ khai mua với một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu nên không có căn cứ kiến nghị mở rộng vụ án. [8]. Về nghĩa vụ chịu án phí: Bị cáo Nguyễn Trọng Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng tại phiên tòa về tội danh, hình phạt và quan điểm xử lý vật chứng là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và hoàn cảnh kinh tế của bị cáo, nên cần được chấp nhận.
Xét đề nghị xin được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất của các bị cáo là thể hiện sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nên cần được xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và mức hình phạt:
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt Nguyễn Trọng Đ 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 15/12/2023.
2. Về xử lý vật chứng:
Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) phong bì niêm phong mặt trước ghi: “số 10/KL- KTHS. Hoàn lại mẫu vụ Nguyễn Trọng Đ - Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Kèm theo Kết luận giám định số 10/KL-KTHS ngày 22/12/2023 của Phòng K Công an tỉnh C); 01 (Một) phong bì niêm phong mặt trước ghi: “Tang vật cân quả tang. Nguyễn Trọng Đ, sinh năm 1989; HKTT: Thôn Q, P, K, Hưng Yên. Hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 15/12/2023”.
Xác nhận toàn bộ các vật chứng nêu trên đã được chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng theo biên bản giao, nhận vật chứng số 58 ngày 02 tháng 02 năm 2024.
3. Về án phí:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Nguyễn Trọng Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) nộp ngân sách Nhà nước.
4. Về quyền kháng cáo:
Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng Hình sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 30/2024/HS-ST
Số hiệu: | 30/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về