TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU - TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 30/2024/HS-ST NGÀY 04/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 04 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 01/2024/TLST-HS ngày 05/01/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2024/QĐXXST-HS ngày 19/02/2024 đối với bị cáo:
Nguyễn Hữu A (Tên gọi khác: Bo Sùng), sinh năm 1996 tại Gia Lai; Nghề nghiệp: Thợ máy CNC; Nơi đăng ký HKTT: Tổ 09, phường Yên Đỗ, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai; Nơi ở: Làng Brel, xã Ia Der, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu L và bà Lê Thị M; Bị cáo có vợ và 02 con, con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2022; tiền án, tiền sự: không; Về nhân thân: Tại bản án số 24/2019/HSST ngày 04/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Pleiku xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; Tại quyết định xử phạt hành chính số 26/QĐ-XPHC ngày 10/01/2019 Công an tỉnh Gia Lai đã xử phạt Nguyễn Hữu A 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/9/2023 đến ngày 28/9/2023, sau đó chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ công an thành phố Pleiku. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Trần Thị Thanh T, sinh năm 1978; Địa chỉ: 100 đường H, Tổ 06, phường T, thành phố P, tỉnh G. Vắng mặt
* Người chứng kiến: Ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1978; Địa chỉ: 55 đường H, Tổ 02, phường Y, thành phố P, tỉnh G. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Hữu A sử dụng ma túy tổng hợp từ khoảng thời gian đầu năm 2019. Thông qua mối quan hệ xã hội, A có được số điện thoại của người thA niên tên Minh (không rõ nhân thân, lai lịch) là người có bán ma túy. Vào khoảng 21 giờ ngày 18/9/2023, A gọi điện thoại cho Minh hỏi mua ma túy thì Minh đồng ý và hẹn gặp tại khu vực trước cổng Bệnh viện đa khoa tỉnh Gia Lai trên đường Tôn Thất Tùng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Sau đó, A điều khiển xe mô tô biển số 81B3-013xx đi đến khu vực đã hẹn và đã mua của Minh 01 gói nilon chứa: 01 gói nilon ma túy (loại Methamphetamine), 01 gói nilon ma túy (loại Kentamine) và 01 gói nilon chứa 01 viên ma túy (loại MDMA) với giá 2.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, A bỏ tất cả vào một túi vải màu đen xám rồi cất giấu trong túi áo; sau đó điều khiển xe mô tô đi tìm nơi để sử dụng. Khoảng 23 giờ cùng ngày, khi A điều khiển xe mô tô đang đi trên đường trước số nhà 148 đường Hai Bà Trưng, Tổ 5, phường Yên Đỗ, thành phố Pleiku, thì bị lực lượng Cảnh sát 113 - Công an tỉnh Gia Lai phối hợp với lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy - Công an thành phố Pleiku phát hiện, bắt quả tang thu giữ của A: 01 túi vải màu đen xám bên trong có: 01 gói nilon bên trong có bên trong chứa chất màu trắng dạng tinh thể, 01 gói nilon bên trong có bên trong chứa chất màu trắng dạng bột và 01 gói nilon bên trong chứa 01 viên nén đã vỡ dạng cục, bột màu cam (đã được niêm phong theo quy định). Ngoài ra, còn thu giữ của A: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng đồng kèm thẻ sim (mặt sau có dãy số 89840.20001.14875.65812), 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Air Blade màu đen bạc biển số 81B3-013.xx, số máy KF41E0139859, số khung RLHKF410XMZ107331.
Qua giám định, tại bản Kết luận giám định số 854 ngày 27/9/2023 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai, kết luận: “Chất màu trắng dạng tinh thể trong 01 gói nilon, trong bì công văn niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 1,0687 gam. Chất màu trắng dạng bột trong 01 gói nilon, trong bì công văn niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, khối lượng 0,8709 gam. Chất dạng cục, bột, màu cam trong 01 gói nilon, trong bì công văn niêm phong gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng 0,4891 gam”.
Tại bản Cáo trạng số 22/CT-VKS ngày 04/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đề nghị áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, 38, 50 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu A từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù; Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền; Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy một bì công văn ghi số 854/PC09 ngày 27/9/2023, có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai và 01 sim số; Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng đồng; Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trA tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Pleiku, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án này đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án do đó đã có đủ cơ sở xác định: Khoảng 23 giờ ngày 18/9/2023, Nguyễn Hữu A điều khiển xe mô tô 81B3-013.xx đang đi trên đường trước số nhà 148 đường Hai Bà Trưng, Tổ 5, phường Yên Đỗ, thành phố Pleiku thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy Công an thành phố Pleiku bắt quả tang đang tàng trữ 1,0687 gam, Methamphetamine, 0,8709 gam loại Ketamine, 0,4891 gam, MDMA để sử dụng. Hành vi đó của bị cáo Nguyễn Hữu A đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có nhân thân xấu. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[4] Về hình phạt: Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, đặc điểm về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo mới đủ tác dụng giáo dục và răn đe.
[5] Xét bị cáo phạm tội không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Ngày 18/9/2023, bị cáo mượn chiếc xe mô tô hiệu Honda Air Blade màu đen bạc biển số 81B3-013.xx của chị Trần Thị ThA Trà để đi công việc. Việc bị cáo sử dụng xe đi mua ma túy thì chị Trà không biết. Do đó, Cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku đã trả chiếc xe mô tô biển số 81B3- 013.xx cho chị Trà là phù hợp nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về vật chứng:
- 01 (một) bì công văn ghi số 854/PC09 ngày 27/9/2023, có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai là vật cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.
- 01 sim số không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ.
- 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng đồng, bị cáo dùng điện thoại để liên lạc mua ma tuý, là công cụ phương tiện phạm tội nên cần tịch thu ngân sách nhà nước.
[8] Đối với đối tượng tên Minh là người mà bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo vào ngày 18/9/2023, quá trình điều tra do bị cáo không biết rõ nhân thân, lai lịch, không xác định được số điện thoại của Minh nên chưa có căn cứ điều tra, xử lý. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào xác định được sẽ xem xét và xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 38 của Bộ luật Hình sự;
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu A 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ (19/9/2023).
2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 của Bộ luật Hình sự;
Tịch thu tiêu hủy một bì công văn ghi số 854/PC09 ngày 27/9/2023, có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai và 01 sim số.
Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng đồng.
(Các vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Pleiku, đặc điểm, số lượng, chủng loại theo như biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/01/2024 giữa Công an thành phố Pleiku và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Pleiku).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, áp dụng khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo Nguyễn Hữu A phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (04/3/2024), bị cáo, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 30/2024/HS-ST
Số hiệu: | 30/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về