Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 30/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 30/2023/HS-ST NGÀY 29/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 30/2023/TLST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2023/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Lò Văn M, sinh 05/9/1998; tại: huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản C, xã P, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 07/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Đảng phái: không; con ông Lò Văn B, sinh 1979 và bà Lò Thị I, sinh 1979; mẹ kế bà Quàng Thị H, sinh 1981; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: có 03 tiền án (Ngày 24/4/2019, bị Tòa án nhân dân huyện M, xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 19/6/2020, bị Tòa án nhân dân huyện M xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 27/01/2022, bị Tòa án nhân dân huyện M xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”); tiền sự: không; Nhân thân: chưa có án tích hoặc xử lý, xử phạt vi phạm hành chính khác; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/8/2023 đến nay; có mặt tại phiên toà.

Người bào chữa cho bị cáo Mai: Ông Lường Duy Tuyên, là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ, ngày 30/8/2023, Lò Văn M đi bộ đến bản T, xã M, huyện M, thì gặp Tổ công tác Công an xã M làm nhiệm vụ yêu cầu kiểm tra; khi bị kiểm tra Lò Văn M đã lấy ra giao nộp 01 gói giấy báo bên trong có cục bột màu trắng, Mai khai nhận đó là ma tuý. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng dẫn giải về Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện M để điều tra theo thẩm quyền.

Lò Văn M khai về nguồn gốc ma tuý: khoảng 9 giờ 00 phút ngày 30/8/2023, Mai đi bộ đến nhà Khởi (không biết họ, đệm) ở bản B, xã M, huyện M, tỉnh Sơn La, hỏi và mua được 01 gói ma tuý với số tiền 310.000VNĐ, M đã vào bụi cây ven đường sử dụng một phần còn lại cất giữ mục đích để sử dụng, thì bị bắt quả tang.

Ngày 30/8/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành mở niêm phong cân tịnh tách bì, xác định khối lượng và lấy mẫu giám định tang vật thu giữ khi bắt quả tang Lò Văn M, như sau: Cục bột màu trắng trong gói giấy báo có khối lượng là 0,16 gam, lấy 0,16 gam làm mẫu giám định ký hiệu M. Còn lại: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 01 mảnh giấy niêm phong lưu kho vật chứng theo quy định.

Ngày 04/9/2023 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có Kêt luân giám định số 2124/KL-KTHS, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu M là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,16 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,16 gam; loại Heroine”.

Thực hiện điều tra, xác minh đối với người bán trái phép chất ma túy cho Mai, xác định: tại bản B, xã M, huyện M, tỉnh Sơn La, có 01 người tên K (Lò Văn K) nhưng K không có mặt tại địa phương, gia đình, chính quyền không rõ thông tin, không thu thập được chứng cứ nào khác nên đã tiến hành sao lưu tài liệu quản lý, theo dõi và xử lý theo quy định.

Bản cáo trạng số 114/CT-VKS-ML ngày 14/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo Lò Văn M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đó là do nghiện ma túy nên đã mua, cất giữ, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị bắt như cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M luận tội và tranh luận: đề nghị tuyến bố bị cáo Lò Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lò Văn M từ 20 đến 26 tháng tù; không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu và tiêu huỷ: 01 vỏ phong bì và 01 mảnh giấy. Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, miễn án phí cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo M tranh luận: đồng ý với nội dung cáo trạng và lời khai bị cáo đã trình bày; sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo là người dân tộc thiểu số, hiểu biết về đời sống xã hội và pháp luật hạn chế, khối lượng ma tuý không lớn; bị cáo khai ra K là tích cực hợp tác với cơ quan chức năng mở rộng điều tra với Lò Văn K nên đề nghị Hội đồng xét xử xét cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s, t khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và cho bị cáo hưởng mức hình phạt thấp nhất có thể; bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên đề nghị miễn án phí cho bị cáo; các nội dung khác nhất trí với đề nghị của Viện kiểm sát.

Bị cáo Lò Văn M bổ sung bào chữa, tranh luận: bị cáo xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt, xin được miễn án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người khác không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác đinh hành vi phạm tội: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với nội dung kết luận điều tra, cáo trạng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, chứng cứ, tài liệu đã được thu thập và phản ánh trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra, xác minh tại phiên toà, xác định: Hồi 12 giờ, ngày 30/8/2023, bị cáo Lò Văn M bị Tổ công tác Công an xã M, làm nhiệm vụ kiểm tra phát hiện M cất giữ 01 gói giấy báo chứa cục bột màu trắng, M khai nhận đó là ma tuý. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng. Tại kết luận giám định số 2124/KL-KTHS ngày 04/9/2023, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu M là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,16 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,16 gam; loại Heroine”. Như vậy, Lò Văn M là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã cố ý trực tiếp thực hiện hành vi cất giấu, cất giữ trái phép chất ma tuý là xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý có đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lò Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự; tội phạm và hình phạt được quy định như sau: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[3] Về tính chất mức độ của hành vi: Bị cáo được Đảng và Nhà nước tuyên truyền, cải tạo giáo dục rèn luyện bản thân 03 lần, được tái hoà nhập cộng đồng nhưng không thấy đó làm bài học để tiếp tục tu dưỡng, rèn luyện mà ý thức coi thường kỷ cương xã hội, pháp luật của Nhà nước, vì sử dụng ma túy bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi cất giấu, cất giữ trái phép chất ma tuý có tổng khối lượng 0,16 gam là nguy hiểm cho xã hội; với lỗi cố ý trực tiếp bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý; tội phạm bị cáo thực hiện đã hoàn thành, hành vi phạm tội nghiêm trọng, không những làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, sự phát triển về thể chất của con người, suy giảm khả năng lao động do nghiện ma túy và kinh tế của gia đình bị cáo mà còn làm ảnh hưởng đến chính sách về cải tạo, giáo dục người phạm tội của Nhà nước, ảnh hưởng xấu về trật tự an toàn xã hội, trật tự trị an ở địa phương, là nguyên nhân gây ra những loại tội phạm, vi phạm pháp luật khác nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng là đúng người, đúng tội; tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát luận tội quy kết bị cáo phạm tội và đề nghị phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sư: Trong thời gian từ tháng 11/2019 đến tháng 01/2022, bị cáo Lò Văn M đã bị kết án 03 lần tương ứng với 03 tiền án về cùng tội danh “Trộm cắp tài sản”, trong đó có 02 tiền án bị cáo chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 2.000.000VNĐ nên tình tiết đã bị kết án chưa được xoá án tích được quy định là dấu hiệu định tội “Trộm cắp tài sản” và bị xử phạt 15 tháng tù, ngày 28/01/2023 bị cáo đã chấp hành xong hình phạt về địa phương nhưng đến ngày 30/8/2023 bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới (Tàng trữ trái phép chất ma tuý), theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự, bị cáo chưa được xoá án tích và theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật Hình sự thì Lò Văn M đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên đã phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sư, nhân thân: Bị cáo thành khẩn khai báo (khai đầy đủ, đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội), ăn năn hối cải (bị cáo luôn thể hiện sự cắn rứt lương tâm, chấp hành tốt nội quy, quy định nhà tạm giữ, tạm giam, mong muốn sửa chữa, cải tạo mình thành người tốt). Do đó, xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo là người dân lao động, người dân tộc thiếu số, nhận thức pháp luật hạn chế, khối lượng ma tuý không lớn, mục đích tàng trữ trái phép ma túy để sử dụng, cần xem xét giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Nhân thân: Bị cáo có 03 tiền án nên nhân thân xấu, là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy (phiếu xét nghiệm dương tính (+) với ma túy), không có khả năng tự cải tạo nên cần cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để đảm bảo giáo dục, cải tạo bị cáo thành người tốt, có ích cho xã hội và cũng nhằm răn đe, phòng ngừa, giáo dục cho hành vi tương tự.

[6] Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, biên bản xác minh tài sản, lời khai của bị cáo tại phiên tòa xác định: không có tài sản giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về biện pháp ngăn chặn: áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/8/2023 được xét khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

[8] Đối với người bán trái phép chất ma túy theo lời khai của bị cáo, Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng đối tượng tên K không có mặt tại địa phương, không thu thập được tài liệu khác ngoài lời khai của bị cáo nên không có cơ sở chứng minh, xử lý theo vụ án và theo đó cũng không có cơ sở chấp nhận đề nghị của người bào chữa về áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo.

[9] Vật chứng của vụ án: Cơ quan chức năng đã lấy mẫu giám định 0,16 gam Heroine không hoàn lại mẫu giám định nên không có cơ sở xử lý.

Hiện đang lưu kho vật chứng: 01 vỏ phong bì, 01 mảnh giấy báo là vật dụng bị cáo dùng cất giữ trái phép chất ma túy, vật chứng không có giá trị nên tịch thu và tiêu hủy, căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[10] Về án phí: Tài liệu trong hồ sơ xác định bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng đặc biệt khó khăn, bị cáo và người bào chữa cho bị cáo xin miễn nộp tiền án phí; theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo thuộc trường hợp được miễn án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51;

điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Bị cáo Lò Văn M 22 (Hai mươi hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (30/8/2023); không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu và tiêu hủy: 01 vỏ phong bì, 01 mảnh giấy của Lò Văn M (Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/11/2023 giữa Cơ quan điều tra Công an huyện M và Chi cục Thi hành án dân sự huyện M).

4. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo M.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (29/11/2023). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

40
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 30/2023/HS-ST

Số hiệu:30/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về