Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 30/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ CỪ, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 30/2023/HS-ST NGÀY 19/07/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 27/2023/TLST-HS ngµy 26/6/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2023/QĐXXST-HS ngày 05/7/2023 đối với bị cáo:

Ngô Văn S, sinh năm 1989 tại Q, P, Hưng Yên; nơi cư trú: thôn V, xã Q, huyện P, tỉnh Hưng Yên; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn S1 (đã chết) và bà Quách Thị M; có vợ là Lưu Thị V và có 02 con; tiền án: ngày 31/3/2022 bị Tòa án nhân dân huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội trộm cắp tài sản (chấp hành hình phạt xong ngày 02/3/2023); tiền sự: ngày 20/7/2021 bị Công an huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên xử phạt vi phạm hành chính (phạt tiền) về hành vi trộm cắp tài sản (chưa chấp hành); ngày 11/4/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Phù Cừ xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo về tội chống người thi hành công vụ, ngày 08/5/2015 bị Công an huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên xử phạt vi phạm hành chính (phạt tiền) về hành vi trộm cắp tài sản và ngày 24/9/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 18 tháng; tạm giữ ngày 24/4/2023; tạm giam ngày 27/4/2023; bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên “có mặt”.

- Người chứng kiến: ông Doãn Trung X, sinh năm 1960;

Trú tại: thôn Đ, xã Đ1, huyện P, tỉnh Hưng Yên “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 10 phút ngày 24/4/2023, Công an xã Đình Cao, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên phát hiện Ngô Văn S, sinh năm 1989 trú tại thôn V, xã Q, huyện P, tỉnh Hưng Yên đang đi bộ trên đường có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, S tự nguyện giao nộp từ trong túi quần bên phải đang mặc 01 gói giấy bạc kích thước (01 x 01)cm, bên trong chứa chất dạng cục và bột màu trắng. S khai nhận chất trong gói giấy bạc trên là ma túy, loại Heroine của S mang theo để sử dụng cá nhân. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng là 01 gói giấy bạc nêu trên trong phong bì thư dán kín ghi ký hiệu M1. Kiểm tra trên người S không phát hiện, thu giữ đồ vật, tài liệu, tài sản gì.

Tại bản kết luận giám định số: 243/KL-KTHS (KTHS) ngày 27/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên kết luận: Mẫu chất màu trắng dạng cục và bột trong niêm phong ký hiệu M1 (thu giữ của Ngô Văn S) có khối lượng là 0,179 gam, là ma túy, loại Heroine (Heroin), có tên khoa học là Diacetylmorphine; hoàn lại 0,158 gam ma túy, loại Heroine (Heroin) trong niêm phong ghi số 243/KL-KTHS (MT).

Kết quả điều tra, Ngô Văn S khai nhận: Khoảng 10 giờ ngày 24/4/2023, Ngô Văn S đi bộ từ nhà ở thôn V, xã Q, huyện P, tỉnh Hưng Yên đến khu vực xã Đình Cao, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đi đến một gốc cây đề không rõ thuộc thôn nào của xã Đình Cao, huyện Phù Cừ thì gặp một người đàn ông lạ mặt không rõ tên tuổi, địa chỉ, lai lịch. S lại gần người đàn ông hỏi mua ma túy loại Heroine với giá 180.000 đồng, người này đồng ý và đưa bán cho S 01 gói giấy bạc, bên trong có chứa chất ma túy Heroine. S cầm gói ma túy trên cất giấu trong túi quần bên phải rồi đi tìm nơi vắng người để sử dụng. Khi đang đi trên đường, S bị lực lượng Công an kiểm tra, S tự nguyện giao nộp 01 gói giấy bạc bên trong chứa chất ma túy Heroine cho lực lượng Công an.

Về người đàn ông bán ma túy cho S do S không biết rõ tên tuổi, địa chỉ, đặc điểm cụ thể của người này nên cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được.

Vật chứng của vụ án: 01 phong bì được niêm phong ghi số 243/KL- KTHS (MT) bên trong chứa ma túy, loại Heroine (Heroin) do phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên hoàn lại mẫu vật sau giám định, hiện đang quản lý tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phù Cừ.

Tại Cáo trạng số: 27/CT-VKSPC ngày 26/6/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên truy tố Ngô Văn S về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên luận tội, phát biểu quan điểm giữ nguyên quyết định truy tố hành vi phạm tội của bị cáo S theo nội dung bản cáo trạng; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điều 106, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, phạt bị cáo S từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù; không phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo S. Xử lý vật chứng: tịch thu mẫu vật là ma túy do cơ quan giám định hoàn lại cho tiêu hủy. Bị cáo S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Ngô Văn S nhận tội, khai báo thành khẩn diễn biến hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với hành vi của bị cáo S bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cừ truy tố theo nội dung cáo trạng. Bị cáo S đã nhận thức rõ sai phạm của bản thân, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét để phạt bị cáo mức án thấp nhất, tạo điều kiện cho bị cáo phấn đấu cải tạo tốt, sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Phù Cừ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cừ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng, đầy đủ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và tài liệu chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.

[2]. Lời khai nhận tội của Ngô Văn S tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trước cơ quan điều tra, đồng thời phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Ngô Văn S là 01 gói giấy bạc có kích thước (01 x 01)cm, bên trong chứa chất dạng cục và bột màu trắng S khai nhận chất trong gói giấy bạc là ma túy, loại Heroin của S mang theo để sử dụng; đồng thời phù hợp kết luận giám định chất màu trắng dạng cục và bột trong niêm phong ghi ký hiệu M1 (thu giữ của Ngô Văn S) có khối lượng là 0,179 gam, là ma túy, loại Heroine (Heroin), có tên khoa học là Diacetylmorphine; hoàn lại 0,158 gam ma túy, loại Heroine (Heroin) trong niêm phong ghi số 243/KL-KHHS (MT); phù hợp lời khai của ông Doãn Trung X là người chứng kiến khi Ngô Văn S bị bắt quả tang, thu giữ niêm phong vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 10 phút ngày 24/4/2023, tại thôn Đình Cao, xã Đình Cao, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên bị cáo Ngô Văn S đang có hành vi cất giấu trái phép trong người 0,179 gam chất ma túy, loại Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị Công an xã Đình Cao, huyện Phù Cừ phát hiện kiểm tra, bắt quả tang và thu giữ, niêm phong toàn bộ vật chứng. Bị cáo Ngô văn S là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo S thực hiện như phân tích đã có đủ dấu hiệu cấu thành Tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên truy tố Ngô Văn S về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là chính xác, có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai.

[3]. Xét hành vi phạm tội của Ngô Văn S là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước đối với chất ma túy và các chất gây nghiện. Bản thân bị cáo S là người nghiện chất ma túy, biết rõ tác hại của ma túy đối với sức khỏe, trí tuệ của con người, gây thiệt hại về kinh tế và là một trong các nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm khác. Bị cáo S sử dụng chất ma túy để thỏa mãn ham muốn cá nhân dẫn đến phạm tội, đồng thời còn gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu, nhiều lần phạm các tội trộm cắp tài sản, chống người thi hành công vụ và đều bị xử phạt tù, có bản án đã được xóa án tích, có bản án chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội mới với lỗi cố ý, thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy, cần phải xét xử nghiêm minh, áp dụng cho bị cáo một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và cần cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian cần thiết để trừng trị, cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo và làm bài học răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[4]. Về tình tiết tăng nặng: Ngô Văn S trước lần phạm tội này bị cáo đã bị kết án về Tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích lại phạm vào tội nghiêm trọng với lỗi cố ý, nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[5]. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo Ngô Văn S phạm tội bị bắt quả tang, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đều nhận tội, khai báo thành khẩn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Ngô Văn S là người nghiện ma túy, hoàn cảnh khó khăn, không có tài sản và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[7]. Biện pháp tư pháp:

Mẫu vật chất ma túy do cơ quan giám định hoàn lại trong niêm phong là chất Nhà nước cấm, nên cần tịch thu cho tiêu hủy,

[8]. Về án phí: Bị cáo Ngô Văn S là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điều 106, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Ngô Văn S phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Ngô Văn S 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày tạm giữ là ngày 24/4/2023.

Biện pháp tư pháp:

Tịch thu toàn bộ số ma túy do cơ quan giám định hoàn lại mẫu vật giám định trong niêm phong ghi số: 243/KL-KTHS (MT) ngày 27/4/2023, cho tiêu hủy.

(Chi tiết về số lượng, chất lượng, đặc điểm, tình trạng vật chứng được mô tả cụ thể theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/7/2023 giữa Công an huyện Phù Cừ và Chi cục thi hành án dân sự huyện Phù Cừ).

Án phí: Bị cáo Ngô Văn S phải chịu 200.000đ, (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bản án sơ thẩm xét xử công khai có mặt bị cáo, đã báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

86
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 30/2023/HS-ST

Số hiệu:30/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Cừ - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về