Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 30/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ LONG MỸ - TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 30/2022/HS-ST NGÀY 16/12/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 12 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 24/2022/HSST ngày 31 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/QĐXXST - HS ngày 22 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Minh T; Tên gọi khác: Không có; Sinh năm: 1994; Nơi sinh: huyện V, tỉnh Hậu Giang; Nơi cư trú: ấp 4, xã V, huyện V, tỉnh Hậu Giang; Nghề nghiệp: Tài xế; Trình độ học vấn: 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê M (còn sống); và bà: Lê Thị Thu B (đã chết); Vợ: Lê Thị Kim N (đã ly hôn năm 2022). Con: 01 người (Lê Thiên P, sinh năm 2015); Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 05/7/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm, tuyên phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm về “Tội trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo đã chấp hành xong các quyết định của Bản án vào ngày 05/7/2019 nên đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/8/2022 đến ngày 29/8/2022 chuyển tạm giam cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

1/Lê Quốc K, sinh năm: 1956 (vắng mặt)

2/ Lê Công D, sinh năm: 1962 (vắng mặt)

Cùng địa chỉ: Khu vực B, phường V, Thị xã L, tỉnh Hậu Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào lúc 18 giờ 05 phút, ngày 23/8/2022, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Hình sự, Kinh tế và Ma túy - Công an thị xã L, tỉnh Hậu Giang phối hợp cùng Phòng PC04 - Công an tỉnh Hậu Giang tiến hành tuần tra thì phát hiện Lê Minh T có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên tiến hành kiểm tra túi xách của T đang đeo trên người khi T vừa bước xuống từ chiếc xe khách hiệu “Phương Tr”, chạy tuyến thành phố Hồ Chí Minh về Hậu Giang (ghé nhà chờ của hãng xe “Phương Tr”, thuộc khu vực B, phường V, thị xã L). Qua kiểm tra, phát hiện bên trong túi xách của T có một bịch nilong có gạt viền màu đỏ, kích thước (08 x 13.5)cm, bên trong chứa 14 (mười bốn) viên nén màu nâu, không rõ hình dạng, kích thước và một bịch nilong có gạt viền màu đỏ bên trong kích thước có chứa chất rắn dạng tinh thể trong suốt (nghi là ma túy). Qua làm việc, Lê Minh T khai nhận 14 viên nén màu nâu và chất rắn dạng tinh thể trong suốt đều là ma túy nên lực lượng Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Quá trình điều tra, T khai nhận: Vào ngày 20/8/2022, T đi từ nhà lên thành phố Hồ Chí Minh để chơi cùng một số người bạn. Do bản thân là người sử dụng (nghiện) ma túy nên có nhu cầu mua ma túy về để sử dụng. Đến tối ngày 21/8/2022, T đi đến Bến xe miền Tây gặp một thanh niên không rõ nhân thân, lai lịch mua 20 (hai mươi) viên thuốc lắc (ma túy loại MDMA) và 01 (một) gói ma túy dạng tinh thể mà đối tượng tự gọi là “Ke” (ma túy loại Ketamine) với tổng số tiền là 19.000.000 (mười chín triệu) đồng. Sau đó T đem về một nhà nghỉ tại thành phố Hồ Chí Minh (không nhớ địa chỉ cụ thể) và ở cùng với một người bạn nữ tên V (không rõ nhân thân lai lịch). Tại đây, T đã lấy ra 06 (sáu) viên nén (thuốc lắc) và một ít ma túy “Ke” ra sử dụng một mình. Số ma túy còn lại, T cất giữ bên trong túi xách của T (loại túi da màu đen-xanh, hiệu Gucci, có quai đeo màu đỏ- xanh, đã qua sử dụng). Đến khoảng 12 giờ 45 phút cùng ngày, T mang theo số ma túy còn lại và đi một mình đến bến xe miền Tây, bắt xe khách “Phương Tr” đi về Hậu Giang. Khi đến nhà chờ hãng xe “Phương Tr” và bước xuống thì bị bắt quả tang.

Tại bản kết luận giám định số 874/KL-KTHS, ngày 28/8/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hậu Giang kết luận:

“1. Phong bì ký hiệu “01”: 14 (mười bốn) viên nén màu nâu logo hình mặt cú mèo chứa trong 01 (một) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 7,07952 gam, loại MDMA.

2. Phong bì ký hiệu “02”: Mẫu tinh thể trong suốt chứa trong 01 (một) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 11,19342 gam, loại Ketamine”.

* Kết quả xét nghiệm chất ma túy, xác định đối tượng Lê Minh T dương tính Methaphetamin và MDMA.

* Việc thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu và xử lý vật chứng:

- 01 (một) phong bì niêm phong số 874/2022 có hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Hậu Giang và chữ ký ghi tên Đặng Thị Phương L (người chứng kiến) và Trần Lâm Đ (Cơ quan điều tra), gồm: 11 (mười một) viên nén màu nâu, logo hình mặt cú mèo có khối lượng 5,54460 gam (phong bì ký hiệu “01”) và tinh thể còn lại sau giám định có khối lượng 10,45048 gam (phong bì ký hiệu “02”), vỏ bao gói.

- 01 (một) túi da màu đen-xanh , hiệu Gucci, có quai đeo màu đỏ-xanh, túi có ba ngăn, kích thước túi (21 x 24 x 05)cm, bên trong có một ngăn kéo kích thước (14 x 12)cm và một ngăn kích thước (14 x 12)cm và một ngăn có kích thước (10 x 8)cm, không có dây kéo.

- 01 (một) ống kim loại màu trắng bạc, hình trụ tròn, dài 05cm, đường kính 1,3cm, có nắp đậy bằng rảnh xoăn, bên trong rỗng, trên thân ống có nút nghiên hình trụ tròn gắn vào bên trong ống, bên ngoài có nút ấn, dính liền, đã qua sử dụng.

- 01 (một) túi nylon có gạt viền màu xanh, bên trong không có chứa gì, kích thước (03 x 04)cm.

Tại cáo trạng số 28/CT-VKS-TXLM ngày 28 tháng 10 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Long Mỹ đã truy tố bị cáo Lê Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là Bộ luật Hình sự).

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị: Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Lê Minh T từ 05 năm đến 06 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo qui định pháp luật.

Ý kiến của bị cáo Lê Minh T: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến, hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Xét thấy, trong quá trình điều tra, truy tố người làm chứng đã cung cấp lời khai nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt người làm chứng tại phiên tòa.

[3] Về tội danh:

Tại phiên toà bị cáo Lê Minh T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện theo như nội dung của cáo trạng đã nêu. Qua phân tích, đánh giá những vấn đề được tranh tụng tại phiên toà, các chứng cứ, tài liệu được thể hiện trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, đã có đủ cơ sở chứng minh được rằng: Vào ngày 20/8/2022 Lê Minh T đã đi lên thành phố Hồ Chí Minh mua ma túy (loại Ketamine và MDMA) với tổng số tiền là 19.000.000 đồng. Sau khi đã sử dụng hết 06 (sáu) viên ma túy loại MDMA và một ít ma túy loại Ketamine thì T mang hết số ma túy còn lại về tỉnh Hậu Giang với mục đích để sử dụng nhưng đã bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang. Theo kết luận giám định, tổng khối lượng ma túy mà T tàng trữ là 18,27294 gam (11,19342 gam Katemine và 7,07952 gam MDMA). Do đó, hành vi của Lê Minh T đã đủ yếu tố cấu thành “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung tăng nặng là “Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm e đến điểm m khoản này”, được quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 BLHS năm 2015.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thị xã L, tỉnh Hậu Giang truy tố bị cáo Lê Minh T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội:

Bị cáo đã thành niên, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật nhưng chỉ vì muốn thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của cá nhân mà bị cáo bất chấp quy định của pháp luật thực hiện việc sử dụng ma túy. Hành vi của bị cáo Lê Minh T là rất nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, gây ảnh hưởng đến nếp sống văn minh, tiến bộ của xã hội, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình đã gây ra. Việc sử dụng chất ma túy là nguyên nhân có thể dẫn đến các tội phạm khác. Do đó, cần phải có hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Ngày 05/7/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm, tuyên phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm về “Tội trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 138 BLHS năm 2015. Bị cáo đã chấp hành xong các quyết định của Bản án vào ngày 05/7/2019 cho nên căn cứ theo quy định của pháp luật hiện hành nên không xem bị cáo là có án tích.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo đã ly hôn vợ và đang phải trực tiếp, một mình nuôi con còn nhỏ (sinh năm 2015); bị cáo có mẹ kế là bà Phan Thị Bích L có nhiều thành tích xuất sắc trong công tác, được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang tặng nhiều “Bằng khen” Về tình tiết tăng nặng: Không có [6] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo có hoàn cảnh khó khăn phải nuôi con nhỏ nên Hội đồng xét xử không phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Đối với những vật chứng có liên quan đến hành vi phạm tội có giá trị sử dụng thì tịch thu sung công quỹ nhà nước, không còn giá trị sử dụng thì tịch thu tiêu hủy, các vật chứng không liên quan hành vi phạm tội thì trả lại cho bị cáo. Theo đó: Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) phong bì niêm phong số 874/2022 có hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Hậu Giang và chữ ký ghi tên Đặng Thị Phương L (người chứng kiến) và Trần Lâm Đ (Cơ quan điều tra), gồm: 11 (mười một) viên nén màu nâu, logo hình mặt cú mèo có khối lượng 5,54460 gam (phong bì ký hiệu “01”) và tinh thể còn lại sau giám định có khối lượng 10,45048 gam (phong bì ký hiệu “02”), vỏ bao gói.

- 01 (một) túi da màu đen-xanh , hiệu Gucci, có quai đeo màu đỏ-xanh, túi có ba ngăn, kích thước túi (21 x 24 x 05)cm, bên trong có một ngăn kéo kích thước (14 x 12)cm và một ngăn kích thước (14 x 12)cm và một ngăn có kích thước (10 x 8)cm, không có dây kéo.

- 01 (một) ống kim loại màu trắng bạc, hình trụ tròn, dài 05cm, đường kính 1,3cm, có nắp đậy bằng rảnh xoăn, bên trong rỗng, trên thân ống có nút nghiên hình trụ tròn gắn vào bên trong ống, bên ngoài có nút ấn, dính liền, đã qua sử dụng.

- 01 (một) túi nylon có gạt viền màu xanh, bên trong không có chứa gì, kích thước (03 x 04)cm.

[8] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 268, Điều 269 và Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Tuyên bố: Bị cáo Lê Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng: điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Lê Minh T 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/8/2022. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo việc thi hành án.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong số 874/2022 có hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Hậu Giang và chữ ký ghi tên Đặng Thị Phương L (người chứng kiến) và Trần Lâm Đ (Cơ quan điều tra), gồm: 11 (mười một) viên nén màu nâu, logo hình mặt cú mèo có khối lượng 5,54460 gam (phong bì ký hiệu “01”) và tinh thể còn lại sau giám định có khối lượng 10,45048 gam (phong bì ký hiệu “02”), vỏ bao gói. 01 (một) túi da màu đen-xanh, hiệu Gucci, có quai đeo màu đỏ-xanh, túi có ba ngăn, kích thước túi (21 x 24 x 05)cm, bên trong có một ngăn kéo kích thước (14 x 12)cm và một ngăn kích thước (14 x 12)cm và một ngăn có kích thước (10 x 8)cm, không có dây kéo.

01 (một) ống kim loại màu trắng bạc, hình trụ tròn, dài 05cm, đường kính 1,3cm, có nắp đậy bằng rảnh xoăn, bên trong rỗng, trên thân ống có nút nghiên hình trụ tròn gắn vào bên trong ống, bên ngoài có nút ấn, dính liền, đã qua sử dụng. 01 (một) túi nylon có gạt viền màu xanh, bên trong không có chứa gì, kích thước (03 x 04)cm.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 01/11/2022 tại chi Cục thi hành án Thị xã Long Mỹ tỉnh Hậu Giang).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo Lê Minh T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sự sơ thẩm.

4. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

41
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 30/2022/HS-ST

Số hiệu:30/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Long Mỹ - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về