Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 30/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 30/2022/HS-ST NGÀY 10/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2022/TLST-HS ngày 09 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 5 năm 2022, đối với bị cáo: Phan Văn T, sinh năm: 1995; nơi sinh: Tỉnh Đăk Nông; nơi thường trú: Tổ dân phố 7, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông; chỗ ở trước khi phạm tội: Bản Đ, xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn T1 và bà Trần Thị H; có vợ là Phạm Thị D, và 01 con (sinh năm 2019); tiền án: 01, Bản án số: 08/2020/HS-ST ngày 02-3-2020 của Tòa án nhân dân huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông xử phạt 07 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm 02 tháng về tội “Hủy hoại tài sản”, hiện chưa được xóa án tích; bị bắt tạm giữ từ ngày 25-01-2022 đến ngày 28-01-2022 chuyển tạm giam đến nay - Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Phan Văn T1, sinh năm: 1972; địa chỉ: Tổ dân phố 7, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông – Có mặt.

2.3. Người làm chứng:

Bà Lê Thị P, sinh năm: 1978; địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.

Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1969; địa chỉ: Số 80/18, tổ 8, khu phố 1, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai – Vắng mặt.

Anh Nguyễn Công H, sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 00’ ngày 24-01-2022, Phan Văn T tới khu vực ngã ba thuộc xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông mua ma túy để sử dụng. Phan Văn T đến gặp và mua ma túy của 01 người đàn ông tên C (hiện chưa xác định được nhân thân) với số tiền 200.000 đồng. Phan Văn T đưa tiền, người này đưa cho Phan Văn T 01 gói ni lon bên trong có chứa 01 cục ma túy dạng rắn (ma túy đá) sau đó rời đi. Phan Văn T cầm ma túy bỏ vào túi quần bên phải phía trước đang mặc sau đó về nhà. Khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 25-01-2022, Nguyễn Công H mượn xe ô tô hiệu Innova, biển kiểm soát 48A-062.26 của gia đình Phan Văn T đi mua hoa cúc để chơi Tết. Phan Văn T giao xe cho Nguyễn Công H điều khiển, sau đó Nguyễn Công H chạy đi, một lúc sau Nguyễn Công H quay lại chở theo 02 chậu hoa cúc rồi rủ Phan Văn T cùng lên huyện Đ để giao Hoa. Phan Văn T đồng ý để Nguyễn Công H điều khiển xe, còn Phan Văn T ngồi bên cạnh. Đến 16 giờ 30 phút cùng ngày, Phan Văn T và Nguyễn Công H dừng xe ô tô tại thôn T, xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông mua nước uống thì bị lực lượng Công an huyện Đắk Song kiểm tra bắt quả tang Phan Văn T đang tàng trữ trong túi quần 01 gói ni lon hàn kín, bên trong có chứa chất rắn màu trắng, Phan Văn T tự nguyện lấy ra giao nộp và khai nhận là ma túy đá, tàng trữ nhằm mục đích sử dụng. Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song đã thu giữ vật chứng liên quan cùng 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá bằng nhựa trong suốt và 01 xe ô tô hiệu Toyota Innova biển kiểm soát 48A-062.26.

Tại bản kết luận giám định số: 18/KLMT-PC 09 ngày 28-01-2022 của Phòng KTHS công an tỉnh Đắk Nông kết luận: Tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói ni lon màu trắng hàn kín các cạnh được niêm phong trong bì thư gửi giám định là ma túy, có khối lượng mẫu là 0,1409 gam; là Methamphetamine, khối lượng hoàn lại sau giám định là 0,1070 gam.

Cáo trạng số: 30/CT-VKS-ĐS ngày 09 tháng 5 năm 2022, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song đã truy tố bị cáo Phan Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Phan Văn T thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Song truy tốbị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng, không oan.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phan Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Phan Văn T mức hình phạt từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị: Tịch thu tiêu hủy 0,1070 gam Methamphetamine còn lại sau giám định, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

Chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song đã trả cho ông Phan Văn T1 là chủ sở hữu hợp pháp 01 xe ô tô biển kiểm soát 48A-062.26, do Phan Văn T cho Nguyễn Công H mượn rồi cùng đi đến xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

Bị cáo Phan Văn T đồng ý với đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Song, không bào chữa gì thêm, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phan Văn T1 không ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Đăk Song, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Song, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2].Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy, các chứng cứ buộc tội và quan điểm đề nghị xử lý của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật. Vì vậy, đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như sau: Do ý thức xem thường pháp luật nênkhoảng 09 giờ 00 phút ngày 24-01-2022, Phan Văn T đã mua của đối tượng tên C 01 gói ma túy với số tiền 200.000 đồng, mang về nhằm mục đích sử dụng. Đến 16 giờ 30 phút, ngày 25-01-2022, Phan Văn T mang theo số ma túy mua được đến thôn T, xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông thì bị lực lượng Công an huyện Đắk Song và Đồn Biên phòng Đắk Song bắt quả tang cùng vật chứng là 0,1409 gam Methamphetamine. Do đó, đã có đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo Phan Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c)… Methamphetamine,…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...

2. ...”

[3]. Xét tính chất vụ án do bị cáo Phan Văn T gây ra là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm đến trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến nền trật tự trị an tại địa phương nơi bị cáo cư trú cũng như tình hình chung trong xã hội. Bị cáo là người từng bị kết án, cụ thể: Bản án số: 08/2020/HSST ngày 02-3- 2020 của Tòa án nhân dân huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông xử phạt 07 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm 02 tháng về tội “Hủy hoại tài sản”, hiện chưa được xóa án tích, thế nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà còn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thể hiện ý thức xem thường pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức hình phạt đủ nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, phải cách ly bị cáo với xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng điểm s khoản 1Điều 51 của Bộ luật Hình sự; ngoài ra, bị cáo có công với cách mạng nên được áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5].Về hình phạt bổ sung: Bị cáo xác định không có tài sản riêng, không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Đối với hành vi bán trái phép chất ma túy cho Phan Văn T của đối tượng tên C, hiện Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song đã ban hành công văn phối hợp với Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông để điều tra, làm rõ, khi nào có kết quả sẽ xử lý theo quy định.

Đối với Nguyễn Công H là người mượn xe ô tô của gia đình Phan Văn T sau đó chở Phan Văn T lên huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; Nguyễn Công H không biết việc Phan Văn T tàng trữ trái phép chất ma túy trong người nên không xem xét xử lý.

Đối với hành vi tàng trữ pháo của Nguyễn Công H đã được xét xử tại Bản án số: 27/2022/HS-Stngày 27-6-2022 của Tòa án nhân dân huyện đăk Song.

[7]. Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Đối với 0,1070 gam Methamphetamine còn lại sau giám định, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe ô tô biển kiểm soát 48A-062.26, Phan Văn T cho Nguyễn Công H mượn rồi cùng đi đến xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; quá trình điều tra xác định chiếc xe ô tô nói trên là tài sản hợp pháp của ông Phan Văn T1 (Bố của bị cáo). Do không liên quan đến việc phạm tội của Phan Văn T nên chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song đã trả lại cho ông Phan Văn T1.

[8].Về án phí: Bị cáo Phan Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phan Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Phan Văn T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 25-01-2022.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,1070 gam Methamphetamine còn lại sau giám định, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

Chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song trả cho ông Phan Văn T1 01 (Một) xe ô tô biển kiểm soát 48A-062.26.

(Tất cả vật chứng có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 10- 5-2022 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đăk Song và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đăk Song).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Phan Văn T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Phan Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

92
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 30/2022/HS-ST

Số hiệu:30/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Song - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về