Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 30/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ THỌ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 30/2022/HS-ST NGÀY 26/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 7 năm 2022 tại Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 27/2022/TLST-HS ngày 22 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2022/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:

Lương Ngọc K, tên gọi khác: Không, sinh ngày 25/8/1975, tại Hện H, thành phố Hà Nội; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số nhà 82, phố L, xã K, Hện H, thành phố H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá (học vấn): 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lương Đức N, sinh năm 1948; con bà Phạm Thị K, sinh năm 1949; Vợ: Vũ Thị O, sinh năm 1985, con: Có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2015, con nhỏ nhất sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:

Ngày 12/12/1995, Công an quận Đ, thành phố H xử phạt vi phạm hành chính đối với Lương Ngọc K về hành vi đánh bạc, hình thức: cảnh cáo.

Bản án hình sự sơ thẩm số 59/HSST ngày 23/4/1998 của Toà án nhân dân quận C, thành phố H xử phạt Lương Ngọc K 12 tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản của công dân, giá trị tài sản trộm cắp: 480.000 đồng, thời hạn tù tính từ ngày 12/02/1998 (Nộp án phí HSST ngày 23/4/1998; đã chấp hành xong hình phạt tù).

Bản án hình sự sơ thẩm số 1206/HSST ngày 30/10/2000 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt Lương Ngọc K 7 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, phạt bổ sung: 5.000.000 đồng (thi hành xong án phí HSST, phạt bổ sung: ngày 25/6/2003; chấp hành xong hình phạt tù: ngày 24/6/2005).

Bị tạm giữ từ ngày 28/12/2021 đến ngày 06/01/2022, cHển tạm giam từ ngày 06/01/2022. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Phú Thọ. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cáo trạng số 26/CT-VKSTXPT ngày 21 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm l khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự do trên cơ sở điều tra xác định được:

Khoảng 01 giờ 10 phút, ngày 28/12/2021, tại khu vực ngã ba, lối vào khu nghỉ dưỡng P, thuộc khu 1, xã T, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ, tổ công tác phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an tỉnh Phú Thọ phát hiện, bắt quả tang Lương Ngọc K có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trong túi áo bên phải của K: 01 gói nilon màu trắng, bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng. K khai nhận đây là ma túy ketamine, K tàng trữ với mục đích để sử dụng cho bản thân. Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ của K: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, lắp 02 thẻ sim có các số thuê bao: 0344.680.887, 0911.161.975 và số tiền: 50.000 đồng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong số ma túy bị thu giữ theo quy định.

Sau khi bắt quả tang, Cơ quan điều tra tiến hành xét nghiệm, kết quả K dương tính với ma túy, loại Methamphetamine và Ketamine.

Ngày 28/12/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Phú Thọ thi hành lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lương Ngọc K tại số nhà 82, phố L, xã K, Hện H, thành phố H, quá trình khám xét không thu giữ gì.

Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Phú Thọ đã ra quyết định trưng cầu giám định chất rắn dạng tinh thể màu trắng chứa trong 01 gói nilon màu trắng, thu giữ của Lương Ngọc K. Tại bản kết luận giám định số 54/KLGĐ ngày 30/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ kết luận:

“Chất rắn dạng tinh thể màu trắng chứa trong 01 gói nilon màu trắng trong Bì niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là 91,670 gam, loại Ketamine.

* Ketamine: số thứ tự: 35, Danh mục III, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ.

- Hoàn lại đối tượng giám định: Sau khi trích mẫu giám định đã trả lại 80,233 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định được niêm phong trong 01 Bì giấy bên ngoài được đóng 05 hình dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong tại các mép dán.” Xét thấy, vụ việc trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Thọ nên ngày 31/12/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Phú Thọ đã cHển toàn bộ hồ sơ cùng vật chứng đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Thọ để giải quyết.

Ngày 04/01/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Thọ đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Lương Ngọc K về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại Cơ quan điều tra, Lương Ngọc K khai nhận về hành vi phạm tội của mình như sau: Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 20 giờ, ngày 27/12/2021, K đi đến khu vực gầm cầu L, thành phố H để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây, K gặp một nam thanh niên tên H, qua nói cHện biết H có bán ma túy nên K hỏi mua của H 100 gam ma túy Ketamine. H đồng ý bán cho K với giá 40.000.000 đồng. K đưa đủ số tiền mua ma túy cho H, sau đó H đi khoảng 30 phút rồi quay lại đưa cho K 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng. K biết đây là gói ma túy Ketamine nên cất vào trong người, rồi gọi xe taxi đến thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội để tìm thuê nhà nghỉ, khách sạn sử dụng ma túy. Do dịch Covid-19 nên các khách sạn, nhà nghỉ ở thị xã Sơn Tây đóng cửa, K tiếp tục gọi xe taxi do anh Trần Văn D, sinh năm 1987, trú tại Đội 6, xã T, Hện Đ, thành phố H điều khiển đi đến thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ để tìm nơi sử dụng ma túy. Khi đi đến khu vực ngã ba đi vào khu nghỉ dưỡng P, K xuống xe taxi, đang đi bộ vào khu nghỉ dưỡng thì bị tổ công tác của Phòng CSĐTTP về ma túy Công an tỉnh Phú Thọ bắt quả tang như đã nêu trên.

Đối với người nam thanh niên tên H bán ma túy cho K ngày 27/12/2021 tại khu vực gầm cầu Long Biên, K không biết tên, địa chỉ của H nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để xác định được người bán ma túy cho K như K đã khai.

Đối với anh Trần Văn D, là người lái xe taxi chở K từ thị xã Sơn Tây đến thị xã Phú Thọ, tuy nhiên anh D không biết việc K tàng trữ ma túy trên người, đến thị xã Phú Thọ để tìm địa điểm sử dụng ma túy. Vì vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với anh D.

Về vật chứng, đồ vật, tài liệu tạm giữ, kết quả điều tra xác định:

Đối với 01 bì niêm phong đánh số 54/KLGĐ bên ngoài có 05 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Phú Thọ là mẫu vật còn lại được hoàn trả sau khi giám định. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, lắp 02 thẻ sim có các số thuê bao: 0344.680.887, 0911.161.975 là điện thoại của K dùng để liên lạc cá nhân; số tiền 50.000 đồng là tài sản của K, không liên quan đến hành vi phạm tội. Các vật chứng, tài sản trên đã được cHển đến Chi cục thi hành án dân sự thị xã Phú Thọ.

Về thu nhập, điều kiện kinh tế: Quá trình điều tra, cơ quan điều tra tạm giữ của Lương Ngọc K 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO và 50.000 đồng, ngoài ra, Lương Ngọc K không có tài sản gì khác có giá trị. Lương Ngọc K làm nghề lao động tự do, thu nhập không ổn định.

Tại phiên tòa bị cáo Lương Ngọc K thừa nhận hành vi: Khoảng 01 giờ 10 phút, ngày 28/12/2021, tại khu vực ngã ba, lối vào khu nghỉ dưỡng P, thuộc khu 1, xã T, thị xã P, tỉnh Phú Thọ, bị cáo có hành vi tàng trữ ma túy ở thể rắn là Ketamine để sử dụng cho bản thân, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an tỉnh Phú Thọ phát hiện, bắt quả tang, giám định như cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm l khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo: Từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ là ngày 28/12/2021; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;

Về dân sự và xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự;

khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu để tiêu hủy: 01 bì niêm phong số 54/KLGĐ bên ngoài có 05 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong tại các mép dán, trong đó có đối tượng giám định được hoàn lại là 80,233 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định.

Trả lại cho Lương Ngọc K: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, đã qua sử dụng, có gắn thẻ sim số 0344680887 và số 0911161975 (Điện thoại đã hết pin, không kiểm tra được tình trạng máy còn hoạt động hay không); 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng).

Bị cáo không có tranh luận gì.

Lời nói sau cùng, bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, người chứng kiến và các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, phù hợp với kết quả tranh luận tại phiên tòa. Do vậy có đủ cơ sở xác định:

Khoảng 01 giờ 10 phút, ngày 28/12/2021, tại khu vực ngã ba, lối vào khu nghỉ dưỡng P, thuộc khu 1, xã T, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ, Lương Ngọc K có hành vi tàng trữ 91,67 gam ma túy ở thể rắn là Ketamine để sử dụng cho bản thân, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an tỉnh Phú Thọ phát hiện, bắt quả tang. Hồ sơ vụ việc được cHển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Thọ giải quyết theo thẩm quyền.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo hoàn toàn ý thức được hành vi đó là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy xâm phạm chế độ quản lý, sử dụng các chất ma tuý của Nhà nước.

Vì vậy có cơ sở và căn cứ pháp lý kết luận bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm l khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Thọ truy tố bị cáo về tội danh cũng như điều luật áp dụng là đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm theo pháp luật hình sự để giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo không có tiền án, không có tiền sự nhưng có nhân thân như đã nêu trên.

Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự vì bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bố đẻ của bị cáo là ông Lương Đức Ninh, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba là người có công với cách mạng. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Với các tình tiết nêu trên, áp dụng hình phạt tù trong khung hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời gian, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội.

Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản gì có giá trị. Vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[2] Về vấn đề dân sự và xử lý vật chứng của vụ án:

Đối với 01 bì niêm phong đánh số 54/KLGĐ bên ngoài có 05 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Phú Thọ là mẫu vật còn lại được hoàn trả sau khi giám định được tịch thu để tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, lắp 02 thẻ sim có các số thuê bao: 0344.680.887, 0911.161.975 là điện thoại của K dùng để liên lạc cá nhân và số tiền 50.000 đồng là tài sản của K, không liên quan đến hành vi phạm tội được trả lại cho Lương Ngọc Khách.

[3] Về án phí: Bị cáo Lương Ngọc K phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[4] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm l khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lương Ngọc K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lương Ngọc K 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ là ngày 28/12/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Lương Ngọc K.

2. Về dân sự và xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu để tiêu hủy: 01 bì niêm phong số 54/KLGĐ bên ngoài có 05 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong tại các mép dán, trong đó có đối tượng giám định được hoàn lại là 80,233 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định.

Trả lại cho Lương Ngọc K: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, đã qua sử dụng, có gắn thẻ sim số 0344680887 và số 0911161975 (Điện thoại đã hết pin, không kiểm tra được tình trạng máy còn hoạt động hay không); 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng).

(Vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng cHển đến Chi cục thi hành án dân sự thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ ngày 23/6/2022).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH của Ủy ban thường vụ quốc hội ngày 30/12/2016.

Bị cáo Lương Ngọc K phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

115
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 30/2022/HS-ST

Số hiệu:30/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Thọ - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về