Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 30/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NẬM NHÙN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 30/2021/HSST NGÀY 04/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 04/8/2021 tại trụ sở tòa án nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 30/2021/HSST ngày 14/6/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2021/QĐXXST-HS ngày 21/7/2021 đối với các bị cáo

1. Họ và tên: Lỳ Lò G; tên gọi khác: không; sinh năm 1979 tại Mường Tè Lai Châu; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở trước khi bị bắt: bản H, xã N, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: La Hủ; quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ Đảng, đoàn thể: Không; con ông: Lỳ Gió Ch, đã chết và con bà Thàng Lỳ P, sinh năm 1948; Anh em ruột có 05 anh em, bị cáo là con thứ tư trong gia đình; Vợ: Vàng Gạ X, sinh năm 1984; Con: bị có 03 con lớn nhất sinh năm 2000 nhỏ nhất sinh năm 2010.

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 28/10/2016 Lỳ Lò G bị Tòa án nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu xử phạt 02 năm tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS. Ngày 09/5/2018 chấp hành xong hình phạt tù (đã được xóa án tích).

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Nậm Nhùn từ ngày 04 tháng 02 năm 2021 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên toà.

2. Họ và tên: Pờ Phí T; tên gọi khác: không; sinh năm 1985 tại Mường Tè Lai Châu; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở trước khi bị bắt: bản H, xã Nậm Khao, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 6/12: dân tộc: La Hủ; quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ Đảng, đoàn thể: Không; con ông: Pờ Phu Ch (đã chết) và con bà Ky Phí X (đã chết); Anh em ruột có 05 chị em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Vợ: Vàng Pó X, sinh năm 1989; Con: bị có 02 con lớn nhất sinh năm 2009 nhỏ nhất sinh năm 2011.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Nậm Nhùn từ ngày 04 tháng 02 năm 2021 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên toà.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Pờ Hừ T, sinh năm 1993 Trú tại: Bản H, xã N, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu (vắng mặt tại phiên toà).

* Người bào chữa cho các bị cáo Lỳ Lò G và Pờ Phí T: Ông Nguyễn Công H – Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lai Châu (Có mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 03/02/2021, Pờ Phí T rủ Lỳ Lò G tìm mua Heroine về sử dụng, G đồng ý. Sau đó, T điều khiển xe máy chở G ngồi sau từ bản Huổi Tát, xã Nậm Khao, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu đi lên bản Pa Mu, xã Hua Bum, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu để tìm mua ma túy. Đến nơi T dừng xe ven đường bảo G đợi bên ngoài, còn T một mình đi bộ vào trong bản tìm mua ma túy. Trên đường đi vào trong bản, T mua được 03 gói Heroine với giá 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) và 01 gói Heroine với giá 50.000 đồng (Năm mười nghìn đồng) của một người đàn ông không rõ lai lịch. Mua được Heroine, T gói lại rồi đi bộ ra chỗ G đứng chờ. Đến chỗ G, T bảo Giá cầm gói Heroine đi bộ theo đường mòn khe suối bản Pa Mu ra QL 4H còn T sẽ đi xe máy ra trước chờ. Hồi 12 giờ 45 phút cùng ngày khi G đi ra đến QL 4H thuộc địa phận bản Pa Mu, xã Hua Bum, huyện Nậm Nhùn và chuẩn bị lên xe máy T chờ sẵn thì cả hai bị tổ công tác Công an xã Hua Bum phát hiện bắt quả tang thu giữ gói Heroine nói trên cùng chiếc xe máy T và G dùng để đi mua ma túy.

Ngày 03/02/2021 Công an xã Hua Bum tiến hành lập biên bản niêm phong vật chứng bị tạm giữ của Lỳ Lò G và Pờ Phí T thuộc vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy.

Ngày 04/02/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nậm Nhùn đã mở niêm phong xác định khối lượng và lấy toàn bộ 04 gói nhỏ được ký hiệu M1, M2, M3, M4 có tổng khối lượng 6,07gam chất bột, màu trắng thu giữ của Lỳ Lò G và Pờ Phí T làm mẫu giám định chất ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 185/GĐ- KTHS 07/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 04 Mẫu chất bột, màu trắng (ký hiệu từ M1 đến M4) thu giữ của Lỳ Lò G và Pờ Phí T gửi đến giám định là ma tuý, loại Heroine; (không hoàn lại mẫu vật gửi giám định).

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa Lỳ Lò G và Pờ Phí T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong vụ án.

Cáo trạng số 21/CT - VKS ngày 14 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu đã truy tố các bị cáo Lỳ Lò G và Pờ Phí T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm g khoản 2 điều 249 Bộ luật hình sự.

2. Phạm tội một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Lỳ Lò G và Pờ Phí T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"; áp dụng điểm g khoản 2 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lỳ Lò G và Pờ Phí T mỗi bị cáo từ 05 năm 06 tháng đến 6 năm tù; áp dụng khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo về án các bị cáo sống tại khu vực đặc biệt khó khăn đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; điểm g khoản khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự, xử phạt các bị cáo mức thấp nhất của khung hình phạt; áp dụng khoản 5 điều 249 của Bộ luật hình sự miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo, gia đình các bị cáo sống tại khu vực đặc biệt khó khăn đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo Lỳ Lò G và Pờ Phí T.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, trước Hội đồng xét xử các bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ rõ sự ăn năn hối hận về hành vi của mình đã gây ra. Tại phần tranh luận, các bị cáo nhất trí với bản luận tội của Viện kiểm sát và không có ý kiến tranh luận gì, các bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời trình bày của các bị cáo người bào chữa cho các bị cáo. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, Quyết định của Cơ quan điều tra huyện Nậm Nhùn, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định:

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Do bản thân các bị cáo Lỳ Lò G và Pờ Phí T nghiện ma tuý, nên ngày 03/02/2021, Pờ Phí T đã rủ Lỳ Lò G cùng nhau đến bản Pa Mu, xã Hua Bum, huyện Nậm Nhùn tìm mua Hêrôin để cùng nhau sử dụng. Đến 12 giờ 45 phút cùng ngày tổ công tác Công an xã Hua Bum, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu phát hiện và bắt quả tang Lỳ Lò G và Pờ Phí T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và thu giữ vật chứng của Lỳ Lò G và Pờ Phí T gồm: 04 gói nhỏ Heroine có tổng khối lượng 6,07 gam là vật chứng của vụ án.

Do vậy, hành vi trên của bị cáo Lỳ Lò G và Pờ Phí T đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm g khoản 2 điều 249 Bộ luật hình sự.

Vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu đã truy tố các bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3]. Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng các bị cáo cùng nhau thực hiện, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an trên địa bàn. Hơn nữa, ma tuý còn là tác nhân làm gia tăng tội phạm, làm suy thoái nhân cách, phẩm giá, tàn phá cuộc sống yên vui của gia đình, gây xói mòn đạo lý, kinh tế xã hội. Các bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vì bản thân nghiện ma tuý nên các bị cáo đã cố ý thực hiện.

Đây là vụ án đồng phạm, bị cáo Pờ Phí T là người khởi xướng cũng là người thực hành và rủ bị cáo Lỳ Lò G cùng nhau đi mua ma túy để sử dụng. Vì vậy, cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ của các bị cáo để cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để các bị cáo có cơ hội tu dưỡng, rèn luyện và cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

[4]. Các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội mà mình gây ra. Xong khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng xem xét:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Lỳ Lò G và Pờ Phí T không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại phiên toà và trong quá trình điều tra các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo đều là người dân tộc thiểu số hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Do vậy, các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Xét điều kiện, hoàn cảnh kinh tế gia đình các bị cáo khó khăn, không có thu nhập ổn định nên cần miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự.

[5]. Về vật chứng của vụ án:

04 gói nhỏ Hêrôin ký hiệu M1, M 2, M3, M 4 có tổng khối lượng 6,07 gam thu giữ của các bị cáo Lỳ Lò G và Pờ Phí T đã gửi toàn bộ đi giám định, không hoàn lại mẫu vật nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA loại Wave, màu sơn xanh ngọc, BKS 25M1- 102.74, số khung RLHJA391XKY097937, số máy JA39E-0954339 thu giữ của Pờ Phí T. Xác định đây là tài sản hợp pháp của anh Pờ Hừ T, sinh năm 1993 trú tại bản Bản Huổi Tát, xã Nậm Khao, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu là em trai của bị cáo, khi Pờ Phí T mượn xe máy đi mua ma túy Pờ Hừ T cũng không biết việc bị cáo dùng vào việc phạm tội, nên cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Pờ Hừ T là phù hợp với quy định của pháp luật.

Trong vụ án Lỳ Lò Giá và Pờ Phí Tư khai nguồn gốc số Heroine các bị cáo mua của một người đàn ông dân tộc Mông không rõ lai lịch, địa chỉ. Do vậy Hội đồng xét xử không có căn cứ để xử lý.

[6]. Về án phí: Bị cáo Lỳ Lò G và Pờ Phí T sống tại khu vực đặc biệt khó khăn nên cần áp dụng điểm đ Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội để miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

Vì các lẽ trên! 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lỳ Lò G và Pờ Phí T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

1. Về hình phạt:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Lỳ Lò Giá và Pờ Phí Tư.

Xử phạt bị cáo Lỳ Lò G 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/02/2021.

Xử phạt bị cáo Pờ Phí T 05 (Năm) năm 08 (Tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/02/2021.

Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho các bị cáo.

2. Về án phí: Áp dụng điểm đ Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo Lỳ Lò G và Pờ Phí T.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể ngày nhận được bản án hoặc bản án được niê m yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 30/2021/HSST

Số hiệu:30/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Nhùn - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về