Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 30/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO YÊN, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 30/2021/HS-ST NGÀY 30/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2021 tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã Xuân Hòa, huyện Bảo Yên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 29/2021/TLST- HS ngày 29 tháng 10 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2021/QĐXXST- HS ngày 18 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Nông Thế C; Tên gọi khác: Không, sinh ngày 29/4/1977 tại L, Y.

Nơi cư trú: Bản L, xã B, huyện Ba, tỉnh L; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nông Nghiệp H- sinh năm 1939 và bà Nguyễn Xuân H– sinh năm 1941; Bị cáo có vợ là Bùi Tuyết C - sinh năm 1974. Bị cáo có hai con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2017;

Tiền án: Không Tiền sự: 01. Năm 2019 bị Tòa án nhân dân huyện Bảo Yên áp dụng biên pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiên bắt buộc, ngày 30/4/2020 chấp hành xong nhưng tính đến nay chưa được xóa tiền sự.

Nhân thân xấu: Ngày 30/11/2010 bị cáo Nông Thế C bị Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Y xử phạt 09 tháng tù giam về tội "Trộm cắp tài sản", đến nay đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 29/8/2021, tạm giam từ ngày 01/9/2021. Hiện bị cáo bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bảo Yên. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 28/8/2021, bị cáo Nông Thế C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave  BKS 24Y1-198.55 (xe mượn của chị Nguyễn Thị H, địa chỉ tại tổ B, thị trấn P, huyện Bả) đi từ nhà lên thị trấn P, huyện B để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại khu vực cầu mới thị trấn P bị cáo được một người nghiện ma túy giới thiệu nơi bán ma túy nên đã đi đến khu vực đằng sau nhà xác bệnh viện đa khoa huyện Bảo Thắng gặp người phụ nữ mua được 01 gói nhỏ nilon màu trắng chứa ma túy đã đựng trong một vỏ bao thuộc lá màu vàng với giá 3.000.000 đồng. Bị cáo cầm ma túy vừa mua được cất vào túi quần bên phải đang mặc rồi điều khiển xe đi về nhà. Khi đi đến khu vực bản L, xã B, huyện Ba thì bị tổ công tác công an huyện Bảo Yên tiến hành kiểm tra và bắt giữ. Bị cáo đã tự giác giao nộp toàn bộ số ma túy và khai nhận hành vi phạm tội.

Tại kết luận giám định số 246/GĐMT ngày 01/9/2021 của Phòng KTHS Công an tỉnh Lào Cai, kết luận: Số ma túy thu giữ của Nông Thế C ngày 28/8/2021 có khối lượng 5,23 gam các hạt tinh thể rắn, màu trắng là loại chất ma túy Methamphetamine.

Cáo trạng số 29/CT-VKS ngày 29/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo Nông Thế C về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nông Thế C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự; Điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nông Thế C từ 05 năm 03 tháng đến 5 năm 09 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Tịch thu tiêu hủy 4,93 gam Methamphetamine và 01 vỏ bao thuốc lá Thắng long được niêm phong trong một bì thư in sẵn của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai.

Tại phiên tòa bị cáo Nông Thế C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận tội, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với tang vật thu giữ và kết luận giám định. Ngày 28/8/2021 bị cáo điều khiển xe máy xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave  BKS 24Y1-198.55 đi từ nhà lên khu vực thị trấn P, huyện B mua của một người phụ nữ không quen biết được 01 gói ma túy với giá 3.000.000 đồng. Khi đi đến khu vực bản L,xã B, huyện B thì bị tổ công tác Công an huyện Bảo Yên kiểm tra và bắt giữ. Theo kết luận giám định số 246/GĐMT ngày 01/9/2021 của Phòng KTHS Công an tỉnh Lào Cai, số ma túy thu giữ của bị cáo có tổng khối lượng là 5,23 gam là loại chất ma túy Methamphetamine. Như vậy, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ xác định hành vi của bị cáo Nông Thế C đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ.

[3] Về hình phạt: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước ta, gây mất trật tự trị an trên địa bàn huyện Bảo Yên. Do đó, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội để cải tạo, giáo dục bị cáo, qua đó răn đe, phòng ngừa những hành vi tương tự.

[4] Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, tuy nhiên bị cáo có nhân thân xấu, ngày 30/11/2010 bị cáo Nông Thế C bị Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Y xử phạt 09 tháng tù giam về tội "Trộm cắp tài sản", đến nay đã được xóa án tích. Bị cáo có 01 tiền sự, năm 2019 bị Tòa án nhân dân huyện Bảo Yên quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đến ngày 30/4/2020 đã chấp hành xong.

Trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo có bố đẻ là Nông Nghiệp H và mẹ đẻ là bà Nguyễn Xuân H được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba và hạng nhất nên bị cáo được hưởng tính tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo không cần thiết phải phạt bổ sung, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]Về vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã thu giữ 5,23 gam Methamphetamine sau khi trích mẫu giám định, còn lại 4,93 gam Methamphetamine và 01 vỏ bao thuốc lá đã được tái niêm phong theo quy định của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Lào Cai. Xét thấy Methamphetamine thuộc danh mục các chất Nhà nước cấm lưu hành, còn 01 vỏ bao thuốc lá không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự là phù hợp.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α BKS 24Y1-198.55 bị cáo điều khiển để đi mua ma túy. Quá trình điều tra xác định chiếc xe máy trên là tài sản của chị Nguyễn Thị Hi, địa chỉ tại tổ B, thị trấn P, huyện B. chị H không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị H, xét thấy là phù hợp.

Đối với 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone màu xám đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo. Quá trình điều tra xác định bị cáo không sử dụng chiếc điện thoại để thực hiện hành vi phạm tội nên cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo xét thấy là phù hợp.

[7] Về các vấn đề khác liên quan trong vụ án: Đối với người đàn ông giới thiệu nơi bán ma túy và người phụ nữ đã bán ma túy cho bị cáo, cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được tên, tuổi, địa chỉ, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo:

Đối với đề nghị của Kiểm sát viên về điều luật áp dụng và hình phạt, về vật chứng là phù hợp.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến đề nghị gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Bộ luật Hình sự . Tuyên bố bị cáo Nông Thế Cphạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nông Thế C 5 (năm) năm 03 (ba) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giữ ngày 29/8/2021.

2.Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 4,93 gam Methamphetamine cùng 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long được niêm phong trong bì thư in sẵn của phòng KTHS - Công an tỉnh Lào Cai. Tại các mép dán của bì niêm phong có chữ ký của hai bên giao nhận và chữ ký của bị cáo, 02 hình dấu tròn đỏ của Phòng KTHS. Trên một mặt bì niêm phong có ghi “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ khi bắt quả tang Nông Thế C ngày 28/8/2021 tại bản L, xã B, huyện B, tỉnh Lào Cai” (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 01/11/2021)

3.Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Nông Thế C phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 30/2021/HS-ST

Số hiệu:30/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Yên - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về