Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 300/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 300/2021/HS-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 284/2021/TLST-HS ngày 30 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 506/2021/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Trần Đình T - Tên gọi khác: không; Giới tính: N; Sinh ngày: 30 tháng 12 năm 1992 tại huyện Thanh Chương, tỉnh N; Nơi đăng ký thường trú: Xóm Đ, xã T, huyện Thanh C, tỉnh N; Nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá (học vấn): 09/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt N; Con ông: Trần Đình A và bà: Nguyễn Thị T; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không. Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/6/2021 đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 10h ngày 01/06/2021, Trần Đình T đang ở nhà chị gái là Trần Thị H (sinh năm 1986, trú tại xã N, huyện N, tỉnh N), do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Trần Đình T đi sang nhà anh Nguyễn Văn M (sinh năm 1972, trú tại xóm 7, xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh N) mượn của anh M chiếc xe máy Honda wave BKS 27B1-xxxxx. Sau khi mượn xe, Trần Đình T điều khiển xe máy đi vào khu vực “vườn hoa tam giác”, gần bến xe V cũ, thuộc Phường Lê Lợi, thành phố V. Tại đây, T gặp một người phụ nữ (không rõ lai lịch, địa chỉ) và hỏi người phụ nữ có biết ai bán ma túy không”, thì người phụ nữ cho T số điện thoại của một người đàn ông tên N. Trần Đình T sử dụng điện thoại di động Nokia 1280, có gắn sim số 084905xxxx gọi cho người đàn ông tên N và hỏi mua 01 (một) gói ma túy heroine với giá 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) thì N đồng ý, hẹn T đến số 41, đường Nguyễn Thái Học, thành phố V để lấy ma túy. Thống nhất xong, T điều khiển xe máy đi đến địa chỉ trên gặp N. Tại đây, T đưa cho N 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), N cầm tiền và chỉ cho T 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Thăng Long để đổi diện gốc cây bên đường. T đi đến vị trí gốc cây, lấy vỏ bao thuốc là Thăng Long lên, bên trong có 01 (một) gói ma túy được bọc ngoài bằng giấy thiếc màu vàng, trong cùng có chứa chất cục bột màu trắng. T vứt vỏ bao thuốc lá Thăng Long, cầm gói ma túy trong tay trái rồi điều khiển xe máy đi đến hiệu thuốc tây trên đường Trường Chinh, thành phố V để mua bơm kim tiêm. Đến 11h15 phút ngày 01/06/2021, khi T đang đứng trước số nhà 52, đường Trường Chinh, thuộc khối 8, phường Lê Lợi, thành phố V, tỉnh N thì bị tổ công tác Công an phường Đông Vĩnh, thành phố V kiểm tra, phát hiện, thu giữ trong tay trái của T 01 gói ma túy, bên ngoài bọc giấy thiếc màu vàng, bên trong chứa chất cục bột màu trắng, thu giữ 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 có gắn sim số 084905xxxx và 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda wave màu xanh đen, BKS 27B1-xxxxx. Người cùng tang vật được dẫn giải về trụ sở Công an phường Đông Vĩnh, thành phố V, tỉnh N lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại cơ quan điều tra, Trần Đình T hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại ngày 01/6/2021 và thông báo kết quả giám định số 833/PC09 (Đ2-MT) ngày 07/06/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công An tỉnh N kết luận: “Mẫu chất cục bột màu trắng thu giữ của Trần Đình T giới tới giảm định là ma túy (Heroine). Số chất cục bột màu trắng thu giữ của Trần Đình T có khối lượng là 0,220 gam.

Cáo trạng số 318/VKS –HS ngày 30/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, tỉnh N đã truy tố bị cáo Trần Đình T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 BLHS.

Tại phiên toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Đình T từ 12 đến 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Bị cáo không tranh luận gì mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng khác của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung: Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Bản cáo trạng đã truy tố là đúng. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với kết luận giám định và các chứng cứ khác đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên toà. Như vậy, có cơ sở để kết luận: Vào hồi 11giờ 15 phút, ngày 01/06/2021, tại khu vực trước số nhà 52, đường Trường Chinh, thuộc khối 8, phường Lê Lợi, thành phố V, tỉnh N, Trần Đình T có hành vi tảng trữ trái phép 01 (một) gói, bên ngoài được bọc giấy thiếc màu vàng, bên trong chứa chất cục bột màu trắng là ma túy (heroine) có khối lượng 0,220 gam thì bị tổ công tác Công an phường Đông Vĩnh, thành phố V, tỉnh N phát hiện bắt quả tang.

Như vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, vi phạm vào điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự như bản cáo trạng truy tố là có căn cứ và đúng pháp luật.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý. Vì vậy cần xét xử nghiêm minh và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần vì quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, cần xử bị cáo khung hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là đủ nghiêm và thể hiện sự khoan hồng pháp luật.

Đối với loại tội này ngoài hình phạt chính còn có hình phạt bổ sung là phạt tiền.

Xét bị cáo hiện không có việc làm ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[3] Về vật chứng:

- 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ma túy (Heroine) còn lại sau khi lấy mẫu giám định là 0,120 gam là chất cấm không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy. Tịch thu xuy quỹ 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 thu giữ của Trần Đình T.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda wave màu xanh đen, BKS 27B1 xxxxx. Quá trình điều tra xác định chiếc xe máy là tài sản của anh Nguyễn Văn M, (anh M không biết việc T sử dụng xe để đi mua ma túy) nên cơ Công an đã trả lại cho chủ sở hữu là đúng quy định pháp luật.

Đối với người đàn ông tên N (không rõ lai lịch địa chỉ) bán ma túy cho T. quá trình điều tra cơ quan Công an đã xác minh nhưng không rõ tung tích địa chỉ. Do đó Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra, nếu đủ căn cứ sẽ xử lý sau. Vì vậy miễn xét.

[4] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Đình T phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo Trần Đình T 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt, tạm giữ, tạm giam 01/6/2021.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ điều 47 Bộ luật hình sự, điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy một phong bì niêm phong chứa số 0,120 gam ma túy (Heroine) còn lại sau khi giám định; Tịch thu xung quỹ 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 thu giữ của Trần Đình T (Vật chứng hiện có tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án thành phố V theo phiếu nhập kho vật chứng số NK2021/339 ngày 09/8/2021).

Về án phí: Căn cứ điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí buộc bị cáo Trần Đình T phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh N.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 300/2021/HS-ST

Số hiệu:300/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về