TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 293/2023/HS-ST NGÀY 12/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 12 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh D xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 315/2023/HSST ngày 16 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 295/2023/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 11 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Phạm Thị Kim A, sinh năm 2002 tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: khu phố 2, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con bà Phạm Thị Thanh T, sinh năm 1981; cha không rõ; chồng tên Trần Văn H, sinh năm: 1991; có 02 người con sinh năm 2019 và 2021; tiền án: không;
Tiền sự: Ngày 26/8/2022 bị Công an phường Thái Hòa, thành phố T, tỉnh D xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.000.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.
Nhân thân: Ngày 14/4/2023, bị Tòa án nhân dân thành phố A, tỉnh D xử phạt 06 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án số 105/2023/HS-ST. Bị cáo bị kháng nghị, đến ngày 29/6/2023 Tòa án nhân dân tỉnh D xét xử phúc thẩm tuyên hủy Bản án số 105/2023/HS- ST ngày 14/4/2023 của Tòa án nhân dân thành phố A để điều tra lại theo thủ tục chung.
Ngày 30/5/2023 và ngày 07/6/2023 có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và bị bắt quả tang. Bị tạm giữ từ ngày 08/6/2023, đến ngày 17/6/2023 bị khởi tố bị can và chuyển sang tạm giam cho đến nay; có mặt.
2. Châu G, sinh năm 1993 tại D; thường trú: tổ 6, khu phố B, phường T, thành phố T, tỉnh D; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá:
10/12; dân tộc: Hoa; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông C, sinh năm: 1962 và bà Đặng Thị Bích P, sinh năm: 1967; vợ tên Huỳnh Thị Kim G, sinh năm 1994 (đã ly hôn); có 01 người con sinh năm 2017; tiền sự: không;
Tiền án: Ngày 07/11/2019, bị Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) T, tỉnh D xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tại Bản án số 169/2019/HS-ST. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 21/9/2021.
Ngày 30/5/2023 có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị bắt quả tang và bị tạm giữ đến ngày 09/6/2023 bị khởi tố bị can và chuyển sang tạm giam cho đến nay; có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Ông Thạch V, sinh năm 1988; thường trú: Ấp V, xã V, huyện Thạnh T, tỉnh Sóc Trăng; tạm trú: Khu phố K, phường T, thành phố T, tỉnh D; vắng mặt.
- Ông Châu T, sinh năm 1962; địa chỉ: tổ 6, khu phố B, phường Tân Phước K, thành phố T, tỉnh D; có mặt.
- Ông Tạ Hữu N, sinh năm 1969; địa chỉ: phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; tạm trú: Nhà trọ S, tổ 1, khu phố A, phường T, thành phố T, tỉnh D; vắng mặt.
- Bà Trịnh Oanh K, sinh năm 1966; địa chỉ: ấp C, xã P, huyện G, tỉnh Kiên Giang; vắng mặt.
Người làm chứng: Ông Tiết Văn T; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Châu G và bị cáo Phạm Thị Kim A có quan hệ quen biết với nhau và đều là người thường xuyên sử dụng trái phép chất ma túy. Loại ma túy Châu G và Kim A sử dụng là ma túy đá (Methamphetamine).
Khoảng 19 giờ ngày 20/03/2023, Châu G điều khiển xe mô tô biển số 68F1- xxxxx đi từ nhà tại khu phố B, phường T, thành phố T đến khu dân cư Chánh N thuộc phường C, thành phố Thủ Dầu Một chơi thì gặp người phụ nữ tên thường gọi là N (không rõ lý lịch, địa chỉ) đang đứng ngoài đường. Do đã từng mua ma túy của N nhiều lần nên C hỏi mua của N 500.000 đồng ma túy để sử dụng thì N đồng ý, sau đó N bán cho Châu G 01 túi nylon miệng kéo dính có chứa chất tinh thể màu trắng đựng trong vỏ gói thuốc lá hiệu JET.
Đến ngày 26/5/2023, Châu G mang túi nylon có chứa chất tinh thể màu trắng đựng trong vỏ gói thuốc lá hiệu JET mua được của N đến phòng số 17 nhà trọ Nguyễn Anh N thuộc khu phố P, phường T, thành phố T của Kim A thuê ở và để trên tấm niệm rồi nằm ngủ, lúc này Kim A thấy và lấy túi nylon có chứa chất tinh thể màu trắng ra một ít để sử dụng nhưng không sử dụng được, Kim A nói với Châu G là đốt lên bị cháy đen không sử dụng được. Sau đó, Kim A bỏ lại túi nylon có chứa chất tinh thể màu trắng trên tấm niệm chỗ Châu G nằm ngủ rồi đi dọn dẹp phòng, Châu G lấy gối nằm đè lên vỏ gói thuốc lá JET và nằm ở đó chơi. Khi ra về Châu G quên mang vỏ gói thuốc lá JET bên trong có 01 túi nylon có chứa chất tinh thể màu trắng mà để lại tại phòng trọ số 17 của Kim A.
Khoảng 20 giờ ngày 29/5/2023, Kim A đón xe Grap đi từ phòng trọ số 17, nhà trọ Nguyễn Anh N đến khu dân cư P thuộc khu phố B, phường B, thành phố A tìm gặp người nữ tên thường gọi là N (không rõ lý lịch, địa chỉ) hỏi mua ma tuý đá với số tiền 500.000 đồng. N đã bán cho Kim A 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. Sau khi mua được ma túy, Kim A bỏ vào trong túi áo khoác phía trước bên trái đang mặc trên người rồi đón xe Grap đi đến nhà của Châu G tại khu phố B, phường T, thành phố T. Sau đó cả hai đi đến phòng số 07 nhà nghỉ T thuộc phường T, thành phố T do Châu G đã thuê trước đó. Khi vào phòng, Châu G đi vệ sinh, lúc này Kim A ở ngoài lấy một ít ma túy vừa mua được bỏ vào bộ dụng cụ sử dụng ma túy mà trước đó Châu G để dưới gầm giường rồi đốt lên sử dụng, số ma túy còn lại Kim A cất lại vào trong túi áo khoác. Sau khi sử dụng xong, Kim A để bộ dụng cụ sử dụng ma túy dưới gầm giường, đến khi Châu G đi vệ sinh ra thì Kim A vào nhà vệ sinh để tắm. Trong lúc Kim A tắm thì Châu G lấy bộ dụng cụ sử dụng ma túy dưới gầm giường ra thì thấy có sẵn ma túy nên tự ý đốt lên sử dụng. Sau khi tắm xong, Châu G chở Kim A về nhà tại khu phố B, phường T, thành phố T.
Đến khoảng 00 giờ 10 phút ngày 30/05/2023, Châu G điều khiển xe mô tô biển số 68F1-xxxxx chở K đi đến đoạn đường V thuộc tổ 4, khu phố K, phường T, thành phố T thì gặp lực lượng Công an phường T kiểm tra hành chính và phát hiện trên đường cách vị trí Kim A và Châu G đứng khoảng 02 mét có 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, lúc này Kim A khai nhận đây là ma túy của Kim A, do sợ bị bắt nên ném xuống đường. Lực lượng Công an lập biên bản niêm phong vật chứng, đưa Kim A và Châu G về trụ sở Công an phường làm việc đồng thời thông báo cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T thụ lý theo thẩm quyền.
Vật chứng tạm giữ: 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng; 01 xe mô tô biển số 68F1-xxxxx nhãn hiệu Yamaha, màu sơn xanh- trắng, số loại Exciter, số máy 55P1-419424, số khung 5P10EY419405;
Ngày 30/5/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T tiến hành khám xét phòng 17 nhà trọ Nguyễn Anh N là nơi ở của Phạm Thị Kim A và phòng số 07 nhà nghỉ T do châu G thuê ở, kết quả: Thu giữ tại phòng trọ số 17 nhà trọ Nguyễn A 01 túi nylon miệng kéo dính có chứa chất tinh thể màu trắng; thu giữ tại phòng số 07 nhà nghỉ Thủy T 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy tự chế.
Tại bản kết luận giám định số 292/KL-KTHS(MT) ngày 06/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh D kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng thu giữ của Phạm Thị Kim A gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có trọng lượng 1,5208 gam. Mẫu tinh thể thu giữ tại phòng trọ số 17 của bị can Châu G gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, có trọng lượng 11,6609 gam.
Quá trình điều tra ban đầu xác định Phạm Thị Kim A đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T không tạm giữ đối với Kim A.
Khoảng 14 giờ ngày 07/06/2023, Kim A mượn xe mô tô biển số 68G1- xxxxx nhãn hiệu Honda loại Air blade của ông Thạch V tiếp tục đi đến khu dân cư P thuộc phường B, thành phố T, tỉnh D tìm gặp người phụ nữ tên thường gọi là N hỏi mua 500.000 đồng ma túy, N lấy vỏ gói thuốc nhãn hiệu JET bên trong có chứa ma túy đưa cho Kim A. Sau khi mua được ma túy, Kim A kẹp gói thuốc lá hiệu JET bên trong có đựng ma túy vào baga phía trước của xe mô tô biển số 68G1-xxxxx rồi điều khiển xe mô tô đi về phòng trọ số 17 nhà trọ N, trên đường về thì gặp Tiết Văn T là bạn quen biết ngoài xã hội. Lúc này, Tý nhờ Kim A chở đến nhà của một người bạn tên G chơi thì Kim A đồng ý, Kim A chở T về phòng trọ của Kim A để tắm thay đồ rồi chở T đi đến nhà của G. Đến khoảng 22 giờ 00 phút cùng ngày, khi Kim A chở T đến khu nhà trọ Nguyễn Anh N thuộc khu phố P, phường T thì gặp lực lượng Công an phường T đang kiểm tra hành chính. Lực lượng Công an nhìn thấy trên baga xe của Kim A đang điều khiển có 01 vỏ gói thuốc lá hiệu JET nên yêu cầu Kim A mở ra kiểm tra thì phát hiện bên trong vỏ gói thuốc lá hiệu Jet có chứa 02 túi nylon miệng kéo dính bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng và 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong có chứa chất màu trắng, Kim A khai nhận đây là ma túy vừa mua được đem về để sử dụng còn T không biết và liên quan gì đến số ma túy trên. Sau đó, lực lượng Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và đưa cả hai về trụ sở Công an phường để làm việc đồng thời thông báo cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T thụ lý theo thẩm quyền.
Vật chứng tạm giữ: 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong có chứa chất màu trắng; 02 túi nylon miệng kéo dính bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng; 01 xe mô tô biển số 68G1-xxxxx nhãn hiệu Honda loại xe Air blade, màu sơn đỏ- đen, số máy JF63E2163641, số khung RHJJF6314HZ027414.
Tại bản kết luận giám định số 313/KL-KTHS(MT) ngày 14/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh D kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong 01 túi nylon miệng kéo dính (ký hiệu M1) gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, có trọng lượng 0,2375 gam. Chất tinh thể màu trắng trong 01 túi nylon miệng kéo dính (ký hiệu M2) gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, có trọng lượng 2,3942 gam. Chất tinh thể màu trắng trong 01 túi nylon miệng kéo dính (ký hiệu M3) gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có trọng lượng 8,8855 gam.
Đối với xe mô tô biển số 68F1-xxxxx nhãn hiệu Yamaha, màu sơn xanh- trắng, số loại Exciter, số máy 55P1-419424, số khung 5P10EY419405 qua tra cứu do bà Trịnh Oanh K đứng tên chủ sở hữu. Xe mô tô này ông Châu T mua lại nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 27/10/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại xe mô tô trên cho ông Châu T.
Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Airblade màu đỏ-đen, số máy JF63E2163641, số khung RHJJF6314HZ027414 gắn biển số 68G1-xxxxx, qua tra cứu xe thì biển số và số khung, số máy không trùng khớp với nhau.
Đối với biển số 68G1-xxxxx, qua tra cứu xác định biển số này là của xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe EXCITER, màu sơn xám xanh, số máy: G3D4E669031, số khung: RLCUG0610JY642555 do ông Nguyễn Văn Đ đứng tên chủ sở hữu. Qua xác minh tại địa phương, ông Đ đã bỏ đi địa phương, đi đâu không rõ nên không tiến hành làm việc được.
Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Airblade màu đỏ-đen, số máy JF63E2163641, số khung RHJJF6314HZ027414 qua tra cứu xác định có biển số 59U2-168.43 do ông Tạ Hữu N đứng tên chủ sở hữu. Qua làm việc, ông N khai nhận xe mô tô này ông N đã bị mất trộm vào ngày 02/05/2023 tại khu vực ngã tư Miễu Ông Cù thuộc khu phố Khánh Long, phường Tân Phước Khánh, thành phố T, tỉnh D nhưng ông N không trình báo Cơ quan Công an.
Cáo trạng số 341/CT-VKSTU ngày 15/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo Phạm Thị Kim A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại các điểm b, g, n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Châu G về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng các điểm b, g, n khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Bị cáo Phạm Thị Kim A từ 07 năm đến 08 năm tù.
Áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt:
- Bị cáo Châu G từ 03 năm đến 04 năm tù.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên:
- Tịch thu tiêu hủy: 02 bì thư niêm phong ký hiệu 292/PC09 (M1-M2), bên trong chứa Katamine (M1), Methamphetamine (M2) theo kết luận giám định số 292/KL-KTHS (MT) ngày 06/6/2023 của Phòng KTHS Công an tỉnh D và 01 bì thư niêm phong ký hiệu 313/PC09, bên trong chứa Katamine (M1), Methamphetamine (M2) theo kết luận giám định số 313/ KL-KTHS ngày 14/6/2023 của Phòng KTHS Công an tỉnh D và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy tự chế, 01 vỏ bao thuốc lá Jet bị thu giữ là chất cấm và là vật chứng của vụ án nên cần tịch thu, tiêu hủy.
Đối với đối tượng tên N đã bán ma túy cho Châu G. Do không xác định được nhân thân, lý lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T chưa có căn cứ để xử lý, sẽ tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý sau.
Đối với đối tượng tên N đã bán ma túy cho Phạm Thị Kim A. Do không xác định được nhân thân, lý lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T chưa có căn cứ để xử lý, sẽ tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý sau.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố và không trình bày lời bào chữa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: ông Châu T không trình bày lời tranh luận.
Nói lời sau cùng: Các bị cáo đã nhận thấy hành vi của mình là sai trái, vi phạm pháp luật, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận: Khoảng 00 giờ 10 phút ngày 30/5/2023, tại đoạn đường V thuộc tổ 4, khu phố K, phường T, thành phố T, tỉnh D, bị cáo Phạm Thị Kim A đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,5208 gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an phường Tân Phước Khánh phát hiện bắt quả tang; bị cáo Châu G có hành vi tàng trữ trái phép 11,6609 gam ma túy loại Ketamine với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện thu giữ.
Ngoài hành vi nêu trên thì khoảng 22 giờ ngày 07/6/2023, tại phòng 17 nhà trọ Nguyễn Anh N thuộc khu phố P, phường T, thành phố T, tỉnh D, bị cáo Phạm Thị Kim A đã có hành vi tàng trữ trái phép 2,6317 gam ma túy loại Ketamine và 8,8855 gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.
Do đó, hành vi của bị cáo Phạm Thị Kim A đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại các điểm b, g, n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự; bị cáo Châu G đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố các bị cáo về tội danh và khung hình phạt như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước trong quản lý, sử dụng chất ma túy và các chất gây nghiện. Các bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý nghiêm nhưng vì muốn có ma túy sử dụng, thỏa mãn cơn nghiện của bản thân nên đã bất chấp pháp luật, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, để có tác dụng giáo dục các bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, đồng thời để đấu tranh phòng chống tội phạm chung trong xã hội, đối với các bị cáo cần có hình phạt tương xứng đối với tính chất, mức độ, hành vi mà mỗi bị cáo đã thực hiện. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét toàn diện về tính chất, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Châu G có 01 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” nhưng chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội và quá trình điều tra, các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6] Về nhân thân của các bị cáo: Các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy.
[7] Hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị xử phạt đối với các bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ; phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi; nhân thân; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo.
[8] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đối với 02 bì thư niêm phong ký hiệu 292/PC09 (M1-M2), bên trong chứa Katamine (M1), Methamphetamine (M2) theo kết luận giám định số 292/KL-KTHS (MT) ngày 06/6/2023 của Phòng KTHS Công an tỉnh D và 01 bì thư niêm phong ký hiệu 313/PC09, bên trong chứa Katamine (M1), Methamphetamine (M2) theo kết luận giám định số 313/ KL- KTHS ngày 14/6/2023 của Phòng KTHS Công an tỉnh D và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy tự chế, 01 vỏ bao thuốc lá Jet bị thu giữ là chất cấm và là vật chứng của vụ án nên cần tịch thu, tiêu hủy.
[9] Đối với hành vi của đối tượng tên N và tên N đã bán ma túy cho bị cáo A và bị cáo G, do chưa xác định được lý lịch, địa chỉ nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T, tỉnh D tiếp tục điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật là có căn cứ.
[10] Đối với xe môtô nhãn hiệu Honda loại Air Blade màu đỏ-đen, số máy JF63E2163641, số khung RHJJF6314HZ027414 gắn biển số 68G1-xxxxx, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T, tỉnh D tiếp tục điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật là phù hợp.
[11] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Phạm Thị Kim A và Châu G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về trách nhiệm hình sự:
- Căn cứ điểm b, điểm g, điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51;
Điều 38 của Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Phạm Thị Kim A 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/6/2023.
- Căn cứ điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Châu G 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/5/2023.
3. Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp:
Căn cứ Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:
Tịch thu tiêu hủy: 02 bì thư niêm phong ký hiệu 292/PC09 (M1-M2) bên trong chứa Katamine (M1), Methamphetamine (M2) theo kết luận giám định số 292/KL- KTHS (MT) ngày 06/6/2023 của Phòng KTHS Công an tỉnh D và 01 bì thư niêm phong ký hiệu 313/PC09 bên trong chứa Katamine (M1), Methamphetamine (M2) theo kết luận giám định số 313/ KL-KTHS ngày 14/6/2023 của Phòng KTHS Công an tỉnh D; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy tự chế và 01 vỏ bao thuốc lá Jet.
(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/11/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T)
4. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Buộc các bị cáo Phạm Thị Kim A và Châu G mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (ông Châu T) có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (ông Thạch V, ông Tạ Hữu N, bà Trịnh Oanh K) vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 293/2023/HS-ST
Số hiệu: | 293/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về