Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG ẢNG, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 29/2024/HS-ST NGÀY 04/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện A, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 31/2024/TLST- HS, ngày 05 tháng 3 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

29/2024/QĐXXST – HS ngày 25 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo: Họ và tên: Bạc Cầm T; Tên gọi khác: Không; sinh năm: 1978 tại huyện A, tỉnh Đ; Nơi ĐKHKTT và Nơi cư trú: Bản B, xã MĐ, huyện MA, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: 5/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông: Bạc Cầm Ó, sinh năm 1952 và bà Lường Thị T, sinh năm 1957; Gia đình bị cáo có 06 anh chị em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Bị cáo có vợ chị: Quàng Thị P, sinh năm 1979. Bị cáo có 02 người con, con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2003; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa bị xử lý hành chính, chưa bị kết án. Bị cáo bị tạm giam, giữ tại nhà tạm giữ công an huyện A từ ngày 28/11/2023 cho đến ngày xét xử, bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Bạc Cầm T: Cao Thị B - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đ (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì hành vi phạm tội của Bạc Cầm T được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 28/11/2023 Bạc Cầm T đi bộ từ nhà xuống bản NP, xã MĐ, huyện MA để tìm mua ma tuý về sử dụng. Khi đến khu vực đầu bản NP, xã MĐ đã gặp 01 người đàn ông dân tộc Mông không quen biết, qua trao đổi Bạc Cầm T mua được 01 gói Heroine, gói bằng mảnh giấy màu trắng với giá 50.000đồng. Sau khi mua được Heroine Bạc Cầm T cất giấu gói Heroine vào túi quần bên trái rồi đi bộ về nhà, còn người đàn ông bán ma tuý đi đâu thì Bạc Cầm T không rõ. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày khi Bạc Cầm T đang trên đường về thuộc bản Ban, xã Mường Đăng thì gặp Tổ công tác Công an xã Mường Đăng, huyện A đang làm nhiệm vụ, yêu cầu có gì liên quan đến ma tuý thì mang ra giao nộp. Được vận động Bạc Cầm T lấy trong túi quần bên trái Bạc Cầm T đang mặc ra 01 gói Heroine. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong thu giữ vật chứng là 0,14 gam Heroine.

Tại biên bản niêm phong vật chứng hồi 17 giờ 17 phút ngày 28/11/2023 thì vật chứng thu giữ của Bạc Cầm T là 01 gói nhỏ chất bột màu trắng được gói mảnh giấy màu trắng nghi là Heroine.

Ngày 06/12/2023 Cơ quan CSĐT Công an huyện A quyết định khởi tố vụ án hình sự và Quyết định khởi tố bị can đối với Bạc Cầm T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 28/11/2023 xác định: Khối lượng số chất bột màu trắng nghi Heroine được gói mảnh giấy màu trắng là 0,14 gam.

Tại bản kết luận giám định số: 1638/KL – KTHS, ngày 04/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ kết luận:

- Khối lượng vật chứng thu giữ của Bạc Cầm T là 0,14 gam.

- Mẫu chất bột màu trắng được trích ra từ vật chứng thu giữ của Bạc Cầm T gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu.

Cáo trạng số: 11/CT-VKSMA, ngày 04/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện A đã truy tố bị cáo Bạc Cầm T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo về tội danh, điều luật đã áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo Bạc Cầm T từ 01 năm 01 tháng đến 01 năm 04 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 0,11 gam Heroine là vật chứng còn lại của vụ án, 01 mảnh giấy màu trắng.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS và và Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

* Nội dung bản luận cứ của người bào chữa cho bị cáo Bạc Cầm T nhất trí với nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo Bạc Cầm T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; khi được tổ công tác yêu cầu kiểm tra bị cáo đã tự giác giao nộp chất ma túy là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS khi Quyết định hình phạt xem xét cho bị cáo được hưởng mức thấp nhất theo đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Về án phí đề nghị HĐXX miễn án phí cho bị cáo Bạc Cầm T.

Bị cáo Bạc Cầm T nhất trí nội dung bản luận cứ của người bào chữa.

Lời nói sau cùng, Bạc Cầm T nhận phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Qua quá trình xét hỏi và tranh luận công khai tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án, đúng như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu và phù hợp với vật chứng đã thu được của bị cáo cụ thể: Hồi 16 giờ 30 phút ngày 28/11/2023, tại đoạn đường liên xã thuộc bản B, xã MĐ, huyện MA, Bạc Cầm T đã bị bắt quả tang khi đang tàng trữ 0,14 gam Heroine mục đích để sử dụng.

Do vậy, Hội đồng xét xử có đầy đủ căn cứ để kết tội bị cáo Bạc Cầm T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện A đã truy tố bị cáo về tội danh và Điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được và biết rõ tác hại của ma túy, hiểu được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo là người nghiện chất ma túy để thoả mãn nhu cầu của bản thân nên đã bất chấp pháp luật để thực hiện. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy; hành vi phạm tội của bị cáo còn thể hiện sự coi thường pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo tàng trữ ma tuý có khối lượng 0,14 gam Heroine, là tình tiết định khung quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt từ 01 đến 05 năm tù.

[3] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại huyện A, tỉnh Đ được bố mẹ nuôi ăn học hết lớp 5/12 thì nghỉ học ở nhà lao động sản xuất. Năm 1995 kết hôn với chị Tòng Thị Phượng, sinh năm 1979, có 02 người con chung. Bản thân bị cáo là người nghiện chất ma túy nên có nhân thân không tốt. Tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình; khi được tổ công tác yêu cầu kiểm tra bị cáo đã tự giác giao nộp chất ma túy nên Hội đồng xét xử cần xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống, xã hội một thời gian để bị cáo sửa chữa tội lỗi của mình cũng như cai nghiện ma túy để sau này trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 của BLHS.

Theo khoản 5 Điều 249 của BLHS quy định bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Song xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo không có khả năng thi hành, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Tại phiên tòa, xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát; người bào chữa cho bị cáo có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5]. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của BLTTHS Hội đồng xét xử thấy rằng: 0,11 gam Heroine là vật chứng còn lại sau khi gửi mẫu giám định; 01 mảnh giấy màu trắng không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Về nguồn gốc số Heroine bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người đàn ông dân tộc Mông không biết tên, địa chỉ ở đâu vào ngày 28/11/2023. Quá trình điều tra không có cơ sở để làm rõ đối tượng nên HĐXX không xem xét.

[6]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí nên HĐXX miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[7]. Căn cứ Điều 331, Điều 333 BLTTHS: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8]. Trong quá trình điều tra, truy tố thấy rằng: Các hành vi, Quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, người bào chữa cho bị cáo đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự:

1. Tuyên bố: Bị cáo Bạc Cầm T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt: Bạc Cầm T 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28 tháng 11 năm 2023.

Không phạt hình phạt bổ sung là tiền đối với bị cáo.

2. Vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm a, c khoản 2 điều 106 của BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 0,11 gam Heroine là vật chứng còn lại của vụ án; 01 mảnh giấy màu trắng.

(Chi Cục thi hành án dân sự huyện A, tỉnh Đ đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/3/2024).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Bạc Cầm T.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Căn cứ Điều 331, Điều 333 BLTTHS: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2024/HS-ST

Số hiệu:29/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Ảng - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về