Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TƯ NGHĨA, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 29/2023/HS-ST NGÀY 23/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 23 tháng 8 năm 2023, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, Tòa án nhân dân huyện Tư Nghĩa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 34/2023/TLST-HS ngày 12 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2023/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 7 năm 2023 và Thông báo chuyển ngày xét xử số: 465/TB-TA ngày 10/8/2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Đỗ Trọng T1, tên gọi khác: không; sinh ngày: 25/4/2005, nơi sinh: tỉnh Quảng Ngãi. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Tổ 4, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Trọng V và bà Võ Thị Bích L; vợ, con: không có; tiền án: không; tiền sự: Ngày 29/3/2023, bị cáo bị Công an thành phố Quảng Ngãi ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 23/QĐ-XPHC về hành vi: “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự”, với số tiền 3.250.000 đồng. Bị cáo đã chấp hành xong. Về nhân thân: hiện nay Đỗ Trọng T1 đang bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi ra Quyết định khởi tố bị can số: 29/QĐ-CSĐT ngày 31/12/2022 về hành vi “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/4/2023 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tư Nghĩa đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Trần Việt N – Trợ giúp viên pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Ngãi (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Võ Thị Bích L, sinh năm 1982, địa chỉ: Số 519/38/2 Quang Trung, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi (có mặt).

+ Bà Đỗ Thị T2, sinh năm 1983, địa chỉ: Tổ 6, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi (có mặt).

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Minh T3, sinh năm 2003, địa chỉ: Tổ 6, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi (vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 02/4/2023, khi đang ngồi nhậu với anh Nguyễn Minh T3 thì Đỗ Trọng T1 nảy sinh ý định đi mua ma túy để về sử dụng nên đã mượn xe môtô biển kiểm soát 76B1-X của anh T3 để đi mua ma túy. T1 gọi điện thoại cho một người đàn ông (T1 từng mua ma túy của người này một lần) không rõ tên, địa chỉ, có số điện thoại 0764186X để hỏi mua ma túy. Qua thỏa thuận, T1 mua 05 con (ma túy kẹo) và nửa hộp 05 (ma túy khay) với giá 4.000.000 đồng và hẹn lấy ma túy tại cầu B, thị trấn L, huyện T. T1 điều khiển xe máy đến điểm hẹn thì một người đàn ông đi xe máy, mang khẩu trang, đến và đưa cho T1 một gói ma túy được gói trong giấy lịch gồm 05 con (ma túy kẹo) và nửa hộp 05 (ma túy khay) và T1 giao cho người đó 4.000.000 đồng. Sau đó, T1 chạy xe đến trước quán karaoke Song Nghi, đang định gọi cho bạn vào quán để sử dụng nhưng chưa kịp gọi điện thì bị Công an phát hiện bắt quả tang khi T1 đang cầm ma túy trên tay.

Cơ quan công an thu giữ các vật chứng gồm:

- 01 (một) chiếc xe mô tô có biển kiểm soát 76B1-X; nhãn hiệu Honda màu sơn bạc đen (không kiểm tra tình trạng chất lượng);

- 01 (một) điện thoại hiệu IP12Promax, số IMEI1: 350141789462312, số IMEI2: 35014178946231, màu trắng (đã qua sử dụng) không kiểm tra chất lượng bên trong), có gắn 01 (một) thẻ sim số 0942333X.

- 2,47 gam mẫu ma túy, loại MDMA; 1,07 gam mẫu ma túy, loại Kentamine; 01 gói giấy; 01 sợi dây màu đen.

Kết quả trưng cầu giám định:

- Theo Kết luận giám định số 392/KL-KTHS ngày 09/04/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi:

+ 05 viên nén màu xám bên trong phong bì gửi giám định là ma túy, loại MDMA; khối lượng mẫu: 2,47 gam.

+ Chất rắn màu trắng bên trong phong bì gửi giám định là ma túy, loại: Kentamine; khối lượng mẫu: 1,07 gam.

- Theo Kết luận giám định số 426/KL-KTHS ngày 17/5/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi: Dữ liệu lưu trữ trong điện thoại di động, màu trắng, nhãn hiệu Iphone, model A2342, Imei 1: 350141789462312, Imei 2: 35014178946231 và thẻ sim Vinaphone dãy số 89840200011431914546 thời gian vào ngày 02/4/2023 gồm:

+ Trích xuất được 13 cuộc gọi đến, 14 cuộc gọi đi, 20 cuộc gọi nhỡ; 15 tin nhắn đến và 01 tin nhắn đi.

+ Không có dữ liệu lưu trữ trong thẻ sim Vinaphone dãy số 89840200011431914546.

Các tình tiết và phương tiện liên quan đến vụ án:

- Vào ngày 04/02/2023, T1 là người tự nghĩ và tự đi mua ma tuý để sử dụng.

Việc T1 đi mua ma tuý không ai biết, không ai tham gia cùng.

- Đối với người thanh niên bán ma tuý cho Đỗ Trọng T1 vào tối ngày 02/4/2023, T1 chỉ cung cấp được thông tin số điện thoại; ngoài ra, T1 không biết tên, địa chỉ, đặc điểm nhận dạng nên đối với người này Cơ quan Cảnh sát điều tra không xác định cụ thể đối tượng là ai, ở đâu nên chưa có căn cứ để điều tra, xử lý.

- Cơ quan CSĐT Công an huyện Tư Nghĩa gửi Công văn số 132/CSĐT ngày 17/4/2023 và công văn số 191/CSĐT ngày 19/5/2023 gửi đến Công ty dịch vụ Mobifone về việc đề nghị cung cấp thông tin số thuê bao di động 0764186X nhưng đến nay chưa nhận được công văn phúc đáp. Đối với tình tiết trên, khi có công văn phúc đáp sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

Quá trình điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Tại Cáo trạng số 16/CT-VKSTN-HS ngày 08/6/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi truy tố bị cáo Đỗ Trọng T1 về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi sau khi nêu lại nội dung vụ án, phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đỗ Trọng T1 từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội:Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Về xử lý vật chứng, đề nghị: Tịch thu tiêu hủy 01 gói giấy đóng dấu niêm phong chứa chất ma túy còn lại sau giám định gồm 2,34 gam, loại MDMA;

1,00 gam, loại Kentamine; 01 (một) thẻ sim số 0942333X; Trả lại cho bà Đỗ Thị T2 01 (một) chiếc xe mô tô có biển kiểm soát 76B1-X, nhãn hiệu Honda; màu sơn: bạc đen; Trả lại cho bà Võ Thị Bích L 01 (một) điện thoại hiệu IP12Promax, số IMEI1: 350141789462312, số IMEI2: 35014178946231, màu trắng (đã qua sử dụng).

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã truy tố và xin được giảm nhẹ hình phạt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Việc bị cáo bị truy tố và đưa ra xét xử về tội “Tàng trự trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; khi phạm tội, bị cáo chưa đủ 18 tuổi nên nhận thức về pháp luật chưa đầy đủ . Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 91 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đỗ Trọng T1 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng hình sự: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tư Nghĩa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tư Nghĩa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án là hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội, tội danh và tình tiết định khung hình phạt: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Tư Nghĩa lập vào hồi 23 giờ 30 phút ngày 02/4/2023 tại thị trấn La Hà, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi; biên bản khám xét, phù hợp với vật chứng thu giữ, phù hợp với bản Kết luận giám định số 426/KL-KTHS ngày 17/5/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ số ma túy Cơ quan điều tra thu giữ ở trên người bị cáo là của bị cáo mua của một người nam giới không rõ lai lịch tại thị trấn La Hà, huyện Tư Nghĩa với giá 4.000.000đồng (Bốn triệu đồng) để sử dụng cho bản thân. Theo kết luận giám định, chất bột màu trắng thu giữ của bị cáo gửi giám định là ma túy, có khối lượng 2,47 gam, loại MDMA; 1,07 gam ma túy, loại Kentamine. Tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi nêu trên, bị cáo có đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi. Do đó, đủ căn cứ kết luận, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi đã truy tố bị cáo theo điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý không chỉ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, trí lực của con người, mà từ ma tuý đã làm phát sinh nhiều tội phạm khác. Vì vậy, đối với hành vi phạm tội của bị cáo, cần phải được xử phạt một mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; đồng thời, khi phạm tội, bị cáo là người dưới 18 tuổi (17 tuổi, 11 tháng 23 ngày) nên cần áp dụng thêm các điều 90, 91, 101 Bộ luật hình sự để xử phạt, là phù hợp với quy định của pháp luật đối với người chưa thành niên phạm tội.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Hiện nay, Đỗ Trọng T1 đang bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi ra Quyết định khởi tố bị can số: 29/QĐ-CSĐT ngày 31/12/2022 về hành vi “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự. Như vậy, bị cáo là người có nhân thân xấu.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo không có việc làm ổn định nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) chiếc xe mô tô có biển kiểm soát 76B1-X; nhãn hiệu: Honda; màu sơn: bạc đen (không kiểm tra tình trạng chất lượng), chủ sở hữu là bà Đỗ Thị T2, bà T2 giao cho con trai là Nguyễn Minh T3 sử dụng, T3 cho bị cáo mượn xe để đi mua ma túy, bà T2 không biết hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại xe cho bà T2 là đúng quy định.

- Đối với 01 (một) điện thoại hiệu IP12Promax, số IMEI1: 350141789462312, số IMEI2: 35014178946231, màu trắng (đã qua sử dụng) không kiểm tra chất lượng bên trong), điện thoại này là của bà Võ Thị Bích L (mẹ đẻ bị cáo) cho bị cáo mượn để sử dụng, bà L không biết bị cáo sử dụng để làm phương tiện liên lạc mua ma túy nên trả lại điện thoại cho bà L là phù hợp.

- Đối với 01 gói giấy và 01 sợi dây màu đen cùng vỏ bao gói gửi giám định bên trong có chứa chất ma túy còn lại sau giám định gồm 2,34 gam, loại MDMA;

1,00 gam, loại Kentamine: Xét số ma túy này là vật Nhà nước cấm lưu hành; 01 gói giấy và 01 sợi dây màu đen, không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy;

- Đối với 01 (một) thẻ sim điện thoại có số 0942333X, là của bị cáo, bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[9] Về đối tượng bán ma túy cho Đỗ Trọng T1: Hiện nay chưa xác định được lai lịch cụ thể, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tư Nghĩa tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 90, Điều 91, Điều 101 của Bộ lut hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, 1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Trọng T1 phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đỗ Trọng T1 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 02/4/2023.

3. Tạm giam bị cáo Đỗ Trọng T1 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 18/8/2023) để đảm bảo thi hành án.

4. Về hình phạt bổ sung: Không.

5. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, - Tịch thu tiêu hủy 01 gói giấy đóng dấu niêm phong chứa chất ma túy còn lại sau giám định gồm 2,34 gam, loại MDMA; 1,00 gam, loại Kentamine; 01 (một) thẻ sim số 0942333X;

- Trả lại cho bà Đỗ Thị T2 01 (một) chiếc xe mô tô có biển kiểm soát 76B1- X, nhãn hiệu: Honda; màu sơn: bạc đen;

- Trả lại cho bà Võ Thị Bích L 01 (một) điện thoại hiệu IP12Promax, số IMEI1: 350141789462312, số IMEI2: 35014178946231, màu trắng (đã qua sử dụng).

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng thể hiện tại biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09 tháng 6 năm 2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tư Nghĩa và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi).

6. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Đỗ Trọng T1 phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

7. Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Căn cứ Điều 331, Điều 333, khoản 1 Điều 336, Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Viện kiểm sát có quyền kháng nghị bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2023/HS-ST

Số hiệu:29/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tư Nghĩa - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về