Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 29/2023/HS-ST NGÀY 28/02/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 02 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện TN, thành phố H xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 14/2023/HSST ngày 17 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2023/QĐXXST-HS, ngày 13 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo:

Trần Văn M, sinh năm 1991 tại H; nơi cư trú: Thôn 10, xã LK, huyện TN, thành phố H; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Trần Văn Năm và bà Trịnh Thị Dung; chưa có vợ con; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 02/11/2022 đến ngày 10/11/2022 chuyển tạm giam; Có mặt.

Người bào chữa của bị cáo: Bà Nguyễn Thị Thu T - Trợ giúp viên pháp lý Nhà nước thành phố H; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 40 phút ngày 01/11/2022, tổ công tác Đội Cảnh sát giao thông và Cơ động - Công an huyện Thuỷ Nguyên kết hợp Công an thị trấn Núi Đèo làm nhiệm vụ tại khu vực đường 359C, đoạn trước cổng trường Trung cấp khu kinh tế H thuộc thị trấn Núi Đèo, huyện TN, thành phố H phát hiện Trần Văn M có biểu hiện nghi vấn cất giấu trái phép chất ma túy. Tiến hành kiểm tra, lực lượng Công an thu giữ tại túi quần phía trước bên phải của M 01 túi nilon bên trong chứa chất bột màu trắng (nghi chất ma túy); tạm giữ của M 01 xe mô tô biển kiểm soát 16H6-xxxx. Tổ công tác đưa M cùng vật chứng về trụ sở Công an làm việc.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Văn M khai nhận: Do bản thân nghiện ma tuý nên M thường xuyên đi mua ma tuý về sử dụng. Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 01/11/2022, M một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 16H6-xxxx sang khu vực bờ mương Cầu Tre, quận Ngô Quyền, thành phố H mua của một người phụ nữ không quen biết 200.000 đồng được 01 túi ma túy Heroine. Mua được ma tuý, M cất vào túi quần phía trước bên phải rồi điều khiển xe về nhà tìm nơi sử dụng. Khi đến đoạn đường 359C trước cổng trường Trung cấp khu kinh tế H thuộc thị trần Núi Đèo thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng như trên .

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Văn M không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan.

Tại bản Kết luận giám định số 602/KL-KTHS(MT) ngày 08/11/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố H kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Trần Văn M là ma túy, có khối lượng 0,26 gam là ma túy, loại Heroine.

Vật chứng: 01 phong bì niêm phong số 602MT/PC09 chứa chất ma túy, vỏ bao bì còn lại sau giám định; 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 16H6-xxxx chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện TN quản lý.

Bản Cáo trạng số 33/CT-VKSTN ngày 17 tháng 01 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên đã truy tố Trần Văn M về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Trần Văn M khai nhận và thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện TN đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TN giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trần Văn M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự và đề nghị, Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, p khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn M từ 18 tháng tù - 24 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về vật chứng của vụ án, đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong chất ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định; Đề nghị giao cơ quan cảnh sát điều tra hình sự huyện TN, thành phố H tiếp tục tạm giữ chiếc xe mô tô mang biển kiểm soát 16H6-xxxx để tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau theo quy định của pháp luật; Đề nghị HĐXX áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo Trần Văn M được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày quan điểm bào chữa như sau: Thống nhất về tội danh, hành vi phạm tội cũng như khung hình phạt và điều luật áp dụng mà Viện kiểm sát đã đề nghị truy tố, luận tội đối với bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo phạm tội tàng trữ ma túy chỉ để sử dụng cho bản thân bị cáo với khối lượng rất nhỏ là 0,26 gam Heroine; bị cáo là đối tượng khuyết tật nặng theo Quyết định về việc trợ cấp xã hội số 13385/QĐ-UBND ngày 31/8/2022 của UBND huyện TN, thành phố H, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi về hành vi của mình do vậy đề nghị HĐXX áp dụng các quy định của pháp luật cân nhắc xem xét mức hình phạt nhẹ nhất của Bộ luật hình sự đối với bị cáo để bị cáo có cơ hội cải tạo, giáo dục và sửa chữa hành vi trở thành công dân có ích cho xã hội. Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo. Về án phí: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo M.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TN, Viện kiểm sát nhân dân huyện TN và người tiến hành tố tụng thuộc các cơ quan này trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang; bản kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ nên có đủ căn cứ kết luận: Do nghiện ma túy nên bị bị cáo đã cất giữ trái phép 01 gói ma túy loại Heroine, có khối lượng là 0,26 gam mà bị cáo mua để sử dụng cho bản thân, ngày 01 tháng 11 năm 2022 bị phát hiện, bắt giữ quả tang cùng chứng cứ, tang vật. Với hành vi trên, bị cáo Trần Văn M đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng số 33/CT-VKSTN ngày 17 tháng 01 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TN truy tố bị cáo như đã nêu trên là đúng người, đúng pháp luật.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, vi phạm các chính sách pháp luật của Nhà nước về phòng chống ma túy. Hiện nay ma túy đang là hiểm họa đối với con người, tác động xấu đến kinh tế, xã hội, an ninh trật tự, đạo đức, lối sống, văn hóa, hạnh phúc gia đình và làm lây lan đại dịch HIV/AIDS. Bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy nhưng không có ý thức phòng tránh mà đã coi thường pháp luật thực hiện hành vi tàng trữ ma túy với mục đích sử dụng cho bản thân. Vì vậy, cần phải có hình phạt nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4]. Xem xét đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo, tính chất vụ án và quyết định hình phạt:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và bị cáo là đối tượng khuyết tật nặng là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, p khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Từ những tình tiết trên, cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn trên mức khởi điểm của khung hình phạt và buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù tại trại giam trong một thời hạn nhất định nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới, giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

[5]. Về hình phạt bổ sung:

Tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền. Biên bản xác M tài sản của cơ quan điều tra bị cáo không có công ăn việc làm và thu nhập ổn định. Vậy xác định bị cáo không có khả năng thi hành hình phạt tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng: 01 phong bì niêm phong chứa chất ma túy còn lại sau giám định và vỏ bao bì xác định là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc xe mô tô mang biển kiểm soát 16H6-xxxx hiện chưa xác định, làm rõ được số khung nguyên thủy của xe (Số khung hiện tại là BE42B- VN109149 là số đóng lại), số máy của xe (Số máy hiện tại là E407-VN109149 bị tẩy xóa, đóng lại) và chủ xe nguyên thủy nên cần giao cơ quan cảnh sát điều tra hình sự huyện TN, thành phố H tiếp tục tạm giữ chiếc xe mô tô mang BKS 16H6-xxxx để tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau theo quy định của pháp luật.

[7]. Trong vụ án này, đối tượng bán trái phép chất ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra không xác định được căn cước, lai lịch địa chỉ nên không có cơ sở để điều tra, xử lý.

- Về án phí: Bị cáo Trần Văn M được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Trần Văn M được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; điểm s, p khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Văn M 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là 02 tháng 11 năm 2022.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chứa chất ma túy còn lại sau giám định và vỏ bao bì; Giao Cơ quan cảnh sát điều tra hình sự huyện TN, thành phố H tiếp tục tạm giữ chiếc xe mô tô mang biển kiểm soát 16H6-xxxx để điều tra làm rõ, xử lý sau theo quy định của pháp luật (Vật chứng có đặc điểm được mô tả tại Phiếu nhập kho và Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 12/01/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện TN, thành phố H).

3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo Trần Văn M được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Bị cáo Trần Văn M có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2023/HS-ST

Số hiệu:29/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về