Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN SỐ 29/2023/HS-ST NGÀY 27/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY 

Ngày 27/12/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 29/2023/TLST- HS ngày 30/11/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2023/QĐXXST- HS ngày 15/12/2023 đối với bị cáo:

Mùa A L. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam. Sinh ngày 14/10/1988, tại xã BM, huyện TT, tỉnh Yên Bái. Nơi cư trú: Thôn MT, xã BM, huyện TT, tỉnh Yên Bái. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Mông. Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: Không biết chữ. Nghề nghiệp: Nông nghiệp. Con ông Mùa A C (đã chết) và bà Tráng T E, sinh năm 1952. Vợ: Sùng Thị C, sinh năm 1989. Có 02 con, con lớn 15 tuổi, con nhỏ 13 tuổi.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/10/2023, tạm giam từ ngày 22/10/2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện T. Có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo Ông Đỗ Viết Kh - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Yên Bái. Có mặt tại phiên tòa.

* Người phiên dịch Ông Hờ A S, sinh năm 1986. Cư trú tại: Tổ dân phố số 2 thị trấn T, huyện T, tỉnh Yên Bái. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 9/2023 tại đoạn đường qua cầu Làng Kè thuộc thôn MT, xã BM, Mùa A L mua của người phụ nữ không quen biết 01 gói Heroine với giá 300.000 đồng rồi cất giấu trên người không cho ai biết, mục đích để bản thân sử dụng dần. L đã sử dụng một ít hòa với nước bôi lên da và uống được 02 lần. Ngày 18/10/2023 L chia số Heroine còn lại thành 02 gói nhỏ cất vào trong túi áo trước ngực. Đến khoảng gần 20 giờ cùng ngày, khi đang đi trên đường từ nhà ra trung tâm xã BM thì L bị Công an xã BM phát hiện bắt quả tang, thu giữ 02 gói Heroine L mang theo trên người và bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T để xử lý theo thẩm quyền (BL: 16- 24; 60-67).

Ngày 19/10/2023 khám xét khẩn cấp chỗ ở của Mùa A L tại thôn MT, xã BM, huyện TT, tỉnh Yên Bái nhưng không phát hiện và thu giữ thêm đồ vật, tài sản gì.

Tại Bản kết luận giám định số: 597/KL-KTHS ngày 25/10/2023 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Yên Bái kết luận:

- Chất bột nén màu trắng thu giữ của Mùa A L có tổng khối lượng là: 0,43 gam (không phẩy bốn mươi ba gam).

- 0,1 gam trích từ 0,43 gam chất bột nén màu trắng gửi giám định là ma túy; loại Heroine (BL: 37-39).

Cáo trạng số 27/CT-VKS-TT, ngày 30/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, đã truy tố Mùa A L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên luận tội đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 09 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung. Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhận tội, không tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Người Bào chữa đề nghị áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự với lý do bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng cao đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật của bị cáo có phần hạn chế (dùng Heroine để chữa bệnh). Đề nghị mức hình phạt cho bị cáo là 01 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã được thực hiện hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Mùa A L đã thành khẩn khai nhận về hành vi tàng trái phép chất ma túy mà mình đã thực hiện, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Mùa A L mua ma túy loại Heroine với giá 300.000đồng, cất giữ trên người mục đích để bản thân sử dụng.

Hành vi của bị cáo Mùa A L là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật hình sự, xâm hại đến chính sách độc quyền kiểm soát các chất ma túy của nhà nước và còn là nguyên nhân trực tiếp làm gia tăng tình trạng nghiện ma túy, gia tăng tội phạm ma túy, cũng như các tội phạm và vi phạm pháp luật khác. Tác động, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội của địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc mua, sử dụng ma túy của bản thân là trái pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Với khối lượng ma túy Heroine là 0,43 gam, hành vi của Mùa A L đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Bị cáo phạm tội nên phải chịu hình phạt theo quy định của pháp luật hình sự.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự "Người phạm tội thành khẩn khai báo", quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, được Hội đồng xét xử áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3] Về nhân thân: Quá trình sinh sống lao động tại nơi cư trú, Mùa A L chưa có lần nào vi phạm pháp luật bị xử lý, cho thấy bị cáo là người có nhân thân tốt.

Với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo như trên, xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có đủ điều kiện để giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Hình phạt tù cũng góp phần răn đe giáo dục phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng cao, đặc biệt khó khăn, năm 2023 thuộc diện hộ nghèo (Giấy chứng nhận số 32/GCN-HN-HCN ngày 01/01/2023 của UBND xã BM) nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng - 0,43 gam Heroine thu giữ khi bắt quả tang Mùa A L, Cơ quan giám định đã trích 0,1 gam làm mẫu giám định không hoàn lại. Số Heroine còn lại là 0,33 gam được niêm phong. 01 vỏ phong bì đã mở niêm phong, nilon và giấy gói. Cần tuyên tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

[6] Trong vụ án này:

Mùa A L khai mua của một người phụ nữ không quen biết, gặp ở đường tại khu vực thôn MT, xã BM, huyện TT, tỉnh Yên Bái. Quá trình xác minh Cơ quan điều tra không xác định được người đã bán Heroine cho L là ai, nên không đủ cơ sở để điều tra xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Những đề nghị có căn cứ của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, như Hội đồng xét xử đã nhận định nêu trên, cần được chấp nhận.

Người bào chữa đề nghị áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự với lý do nhận thức pháp luật của bị cáo có phần còn hạn chế, xử phạt bị cáo 01 năm tù. Hội đồng xét xử thấy, đề nghị của người bào chữa cũng có một phần cơ sở. Tuy nhiên, bị cáo đã được giáo dục tuyên truyền về tác hại ma túy và biết rõ các hành vi liên quan đến ma túy bị pháp luật của nhà nước nghiêm cấm. Mặc dù bị cáo mua ma túy làm thuốc chữa bệnh nhưng ngay khi mua bị cáo cũng biết đó là ma túy loại Heroine. Mặt khác, khối lượng Heroine bị cáo mua là 0,43 gam cao hơn nhiều lần so với mức khởi điểm mà khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định. Vì vậy Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận một phần đề nghị của người bào chữa, đó là giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Mùa A L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự Xử phạt bị cáo Mùa A L 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giữ, tạm giam 19/10/2023.

2. Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự

2.1. Tịch thu, tiêu hủy - 0,33 gam Heroine được niêm phong trong 01 phong bì thư do phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Yên Bái phát hành. Mặt trước phong bì ghi: Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Mùa A L-SN 1988, về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra tại thôn MT, xã BM, huyện T, tỉnh Yên Bái ngày 18/10/2023 (Sau khi trích mẫu giám định). Mặt sau phong bì các mép được dán kín, có họ tên, chữ ký của Trần Nhật T, Lê Tiến D, Sùng A C, Đỗ Việt K, Hà Tiến H, Giàng A D, điểm chỉ ngón trỏ phải của Mùa A L và đóng 04 hình dấu tròn đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Yên Bái.

2.2. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Mùa A L.

3. Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2023/HS-ST

Số hiệu:29/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trạm Tấu - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về