TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẠC LIÊU, TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 29/2022/HS-ST NGÀY 18/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 18 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 27/2022/TLST-HS ngày 25 tháng 03 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2022/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Minh L, sinh năm 1984 tại B; nơi cư trú: Ấp X, thị trấn P, huyện T, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá (học vấn): 09/12; dân tộc: Khmer; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1958 và bà Trần Thị X, sinh năm 1963; anh chị em ruột 04 người, lớn nhất sinh năm 1979, nhỏ nhất sinh năm 1989; có 02 người vợ là bà Phan Ngọc N (chung sống không có đăng ký kết hôn, hiện nay không còn chung sống với nhau) và bà Trương Yến N, sinh năm 1988 (vợ chính thức); con 08 người, lớn nhất 18 tuổi, nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền án 02 lần: Vào ngày 20/5/2005, bị Tòa án nhân dân huyện G (nay là Tòa án nhân dân thị xã G), tỉnh Bạc Liêu xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 34/2005/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/02/2006, chưa được xóa án tích. Vào ngày 29/5/2019, bị Tòa án nhân dân thị xã G, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 13/2019/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/01/2020, chưa được xóa án tích; tiền sự: Không; bị cáo bị khởi tố bị can ngày 24/11/2021 và bị bắt tạm giam từ ngày 07/12/2021 tại Nhà tạm giữ, Công an thành phố B cho đến nay (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Nguyễn Minh L là người nghiện ma túy và không có nghề nghiệp. Vào rạng sáng ngày 22/8/2021, bị cáo L đi mò tôm được khoảng 01kg tôm sú, sau đó cho vào bịch mang đi bán nhưng không bán được. Khoảng 09 giờ 15 phút cùng ngày, do cần sử dụng ma túy, bị cáo L mang theo bịch tôm và điều khiển xe mô tô loại Dream, biển kiểm soát 53V9-0433 đến hẻm không số, khu vực Cầu Số 4, thuộc Khóm 6, Phường 7, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu và gặp một người thanh niên (không rõ lai lịch và địa chỉ) hỏi đổi một bịch tôm sú trị giá 150.000 đồng để lấy một bịch ma túy thì được người thanh niên này đồng ý. Sau khi nhận ma túy, bị cáo L cầm bịch ma túy trên tay trái và điều khiển xe về nhà để sử dụng, khi đi đến ngã tư giao nhau giữa đường H và đường 30/4, thuộc Khóm 4, Phường 3, thành phố B thì bị lực lượng Công an yêu cầu dừng xe kiểm tra, phát hiện trên tay trái của bị cáo L đang cầm một bịch ny lon màu trắng hàn kín, có đường viền màu xanh gần chỗ nẹp miệng, kích thước 1,8cm x 2,5cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy, nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ tang vật. Quá trình điều tra, bị cáo L thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại Bản kết luận Giám định số: 123/KLGĐ-PC09 ngày 29/9/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bạc Liêu, kết luận: “Chất rắn màu trắng, dạng tinh thể bên trong bịch nylong (kí hiệu M) là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,15448 gam”.
Tại bản Cáo trạng số: 33/CT-VKS-HS, ngày 24/03/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Bạc Liêu truy tố bị cáo Nguyễn Minh L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
- Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 và khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Minh L từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định có khối lượng 0,12120 gam và các vỏ phong bì, bao gói theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.
- Bị cáo L thừa nhận khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo và xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Minh L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình theo như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố. Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo L phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với Bản kết luận Giám định số: 123/KLGĐ-PC09 ngày 29/9/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bạc Liêu; phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 22/8/2021 và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ căn cứ xác định: Vào khoảng 09 giờ 15 phút ngày 22/8/2021, tại ngã tư giao nhau giữa đường H và đường 30/4, thuộc Khóm 4, Phường 3, thành phố B, bị cáo L đã có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy, loại Methamphetamie, có khối lượng 0,15448 gam để sử dụng, không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thì bị bắt quả tang. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo L có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; bị cáo L thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, nên hành vi nêu trên của bị cáo L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như nội dung Cáo trạng truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.
[2.2] Xét thấy, hành vi mua ma túy loại Methamphetamie về cất giấu để sử dụng của bị cáo L là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, là một trong những nguyên nhân phát sinh tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Bị cáo L là người đã có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản và biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng để thỏa mãn cơn nghiện bị cáo L đã thực hiện hành vi phạm tội, cần có mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, nhằm giáo dục, răn đe và cải tạo ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo và để phòng ngừa chung trong xã hội.
[2.3] Tuy nhiên, trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo L đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo L có hai tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích, nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm”, được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định có khối lượng 0,12120 gam và các vỏ phong bì, bao gói theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[4] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo L, Cơ quan điều tra đã chuyển xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.
[5] Đối với hành vi của người thanh niên bán trái phép chất ma túy cho bị cáo L, Cơ quan điều tra thuộc Công an thành phố Bạc Liêu đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự số: 35/QĐ-ĐCSMT ngày 01/03/2022 để điều tra xử lý sau.
[6] Như đã phân tích, chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh, mức hình phạt và xử lý vật chứng.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh L 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 07/12/2021.
Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Minh L 45 ngày (bốn mươi lăm ngày) kể từ ngày tuyên án để bảo đảm thi hành án.
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong, trên gói niêm phong có dòng chữ “123/GĐ – 2021”, có dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bạc Liêu và chữ ký ghi tên Nguyễn Quốc K (Mẫu vật còn lại sau giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng là 0,12120 gam).
(Vật chứng nêu trên đang được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu theo Biên bản giao nhận vật chứng được lập ngày 05/4/2022).
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Nguyễn Minh L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2022/HS-ST
Số hiệu: | 29/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về