Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 291/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 291/2021/HS-ST NGÀY 12/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 267/2021/HSST ngày 01 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 333/2021/QĐXX–HS ngày 28 tháng 10 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh P (Tên gọi khác: Nhọn), sinh năm 1993 tại tỉnh Tiền Giang; Hộ khẩu thường trú: Số 3/3 đường H, Phường B, thành phố M, tỉnh Tiền Giang; Chỗ ở: Xóm M, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hoá: 6/12; Nghề nghiệp: Đi biển; Cha Nguyễn Thanh H, sinh năm: 1968 và mẹ Lâm Thị N (đã chết); Bị cáo là con thứ ba trong gia đình có ba anh em.

Tiền án:

+ Ngày 09-6-2011, bị Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang tuyên phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

+ Ngày 17-7-2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang tuyên phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 92/2012/HSST.

+ Ngày 21-01-2013, bị Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang tuyên phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 38/2013/HSST.

+ Ngày 05-12-2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang tuyên phạt 03 năm về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 90/2017/HSST.

Tiền sự: Không.

Bị bắt ngày 09-6-2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu. (có mặt)

Trần Minh N (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1987 tại tỉnh Cà Mau; Hộ khẩu thường trú: Không có; Chỗ ở: Số 68A đường V, Phường M, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hoá: 5/12; Nghề nghiệp: Đi biển; Cha không rõ và mẹ Huỳnh Thị L (đã chết); Bị cáo là con duy nhất trong gia đình.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt ngày 09-6-2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 09-6-2021, tại nhà nghỉ Hà Sơn 1 số 68A đường Ven Biển, Phường 12, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Công an Phường 12, thành phố Vũng Tàu bắt quả tang Trần Minh N và Nguyễn Văn T (sinh năm 2006) đang tàng trữ trái phép chất ma túy. Sau khi bị bắt, N, T khai số ma túy tàng trữ là do Nguyễn Thanh P mua giúp về để cả ba cùng sử dụng và Cơ quan chức năng đã tiến hành bắt khẩn cấp đối với P.

Quá trình điều tra, N, P, T khai nhận: N, P, T chơi với nhau và cả ba cùng nghiện ma túy. Khoảng 15 giờ ngày 09-6-2021, cả ba gặp nhau và bàn bạc mua ma túy sử dụng chung, tiền mua ma túy do N và T trả còn P liên lạc mua ma túy. N ứng trước đưa cho P số tiền là 500.000đ, P cầm tiền rồi liên hệ với người tên H không rõ nhân thân, lai lịch để mua ma túy. Khi có ma túy, N, P, T cùng nhau đi thuê phòng tại nhà nghỉ Hà Sơn 1 tại số 68A đường Ven Biển, Phường 12, thành phố Vũng Tàu để sử dụng, P sử dụng một ít rồi về đi công việc riêng, còn N và T ở lại tiếp tục sử dụng, đến khoảng 16 giờ 30 phút ngày 09-6-2021 thì bị lực lượng chức năng P hiện và bắt quả tang.

Đối với Nguyễn Văn T khi phạm tội chưa đủ 16 tuổi nên Cơ quan điều tra đã trả quyết định trả tự do cho T.

Bản kết luận giám định số 314/KLGĐ-PC09-MT ngày 17 tháng 6 năm 2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, kết luận: Mẫu chất kết tinh không màu trong suốt chứa trong 01 (một) gói nylon hàn kín gửi đến giám định có khối lượng 0,2889 gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine.

Việc thu giữ và xử lý vật chứng, tài sản:

- 01 (một) gói nylon hàn kín, bên trong có chứa chất kết tinh không màu trong suốt (Kết luận giám định số 314/KLGĐ-PC09-MT ngày 17 tháng 6 năm 2021).

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A10S, số Imei 1:

358176102081805/01, số Imei 2: 358177102081803/01 thu của Trần Minh N.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A4S, số Imei 1:

351662610943211/01, số Imei 2: 352465210943212/01 thu của Nguyễn Văn T. Cơ quan điều tra đã điện thoại Samsung Galaxy A4S cho Nguyễn Văn T.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Redmi số Imei 1:

867587043105260/00, số Imeil 2: 867587043105277/00 thu của Nguyễn Thanh P.

Vật chứng, tài sản còn lại nêu trên hiện đang do Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý.

Bản cáo trạng số 273/CT-VKSTPVT ngày 29-9-2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự và Trần Minh N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố đối với các bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh P từ 05 (năm) năm đến 06 (sáu) năm tù; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Trần Minh N từ 12 (mười hai) đến 15 (mười lăm) tháng tù.

Về xử lý vật chứng, tài sản: Đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma tuý là tang vật vụ án; Trả lại 01 (một) điện thoại di động hiệu hiệu Samsung Galaxy A10S, số Imei 1:

358176102081805/01, số Imei 2: 358177102081803/01 cho bị cáo N do không liên quan đến hành vi phạm tội; Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Redmi số Imei 1: 867587043105260/00, số Imeil 2:

867587043105277/00 do bị cáo P sử dụng liên lạc mua ma túy.

Tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như cáo trạng đã truy tố, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Căn cứ lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa, đối chiếu lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, tang vật bị thu giữ, bản kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 09-6-2021, tại nhà nghỉ Hà Sơn 1 tại số 68A đường Ven Biển, Phường 12, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, lực lượng chức năng bắt quả tang Trần Minh N, Nguyễn Văn T, Nguyễn Thanh P đang tàng trữ khối lượng 0,2889 gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng. Hành vi của N, T, P đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tuy nhiên, đối với Nguyễn Văn T khi thực hiện hành vi phạm tội chưa đủ 16 tuổi nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định trả tự do đối với T là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với bị cáo P, N xét hành vi nêu trên của P và N đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tuy nhiên, xét nhân thân: Bị cáo P đã có bốn tiền án về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích nhưng nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Do đó, hành vi của bị cáo P phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự . Bị cáo N phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố bị cáo P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự và bị cáo N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người đúng tội đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến việc quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Các bị cáo nhận thức rõ việc tàng trữ ma túy để sử dụng không những gây tác hại vô cùng nghiêm trọng đến sức khỏe của bị cáo mà còn là nguyên nhân P sinh lây lan tệ nạn nghiện, hút ma túy, nhiều tệ nạn xã hội khác và các căn bệnh truyền nhiễm, làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo đang trong độ tuổi lao động, có sức khỏe,nhưng không chịu rèn luyện bản thân, lao động kiếm sống để làm người lương thiện, có ích cho gia đình, xã hội mà thực hiện hành vi vi phạm pháp luật là tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt hình phạt tù có thời hạn và mức hình phạt phù hợp, đủ mức răn đe giáo dục bị cáo, đồng thời bảo đảm phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:

[4.1] Tình tiết tăng nặng: Không.

[4.2] Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa cả hai bị cáo đều đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng trong vụ án:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói nylon hàn kín, bên trong có chứa chất kết tinh không màu trong suốt (Kết luận giám định số 314/KLGĐ-PC09-MT ngày 17 tháng 6 năm 2021) là tang vật trong vụ án.

- Trả lại 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A10S, số Imei 1:

358176102081805/01, số Imei 2: 358177102081803/01 cho bị cáo N do không liên quan đến hành vi phạm tội.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Redmi số Imei 1:

867587043105260/00, số Imeil 2: 867587043105277/00 do P sử dụng để liên lạc mua ma túy nên cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

[6] Các vấn đề khác: Đối với người đàn ông tên H đã bán ma túy cho P do chưa rõ lai lịch nên chưa có căn cứ để xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo P, N phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

Các bị cáo Nguyễn Thanh P, Trần Minh N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh P 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09-6-2021.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Minh N 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09-6-2021.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói nylon hàn kín, bên trong có chứa chất kết tinh không màu trong suốt (Kết luận giám định số 314/KLGĐ-PC09-MT ngày 17 tháng 6 năm 2021).

Trả lại 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A10S, số Imei 1:

358176102081805/01, số Imei 2: 358177102081803/01 cho bị cáo N.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Redmi số Imei 1: 867587043105260/00, số Imeil 2: 867587043105277/00.

Vật chứng, tài sản nêu trên Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 23/BB.CCTHA ngày 01-11- 2021của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu.

4. Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Thanh P, Trần Minh N mỗi người phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo P, N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

330
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 291/2021/HS-ST

Số hiệu:291/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về