Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 288/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HM, THÀNH PHỐ HN

BẢN ÁN 288/2022/HS-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 9 năm 2022 tại phòng xét xử trực tuyến trụ sở thành phố HN và điểm cầu Trại tạm giam số 1 – Công an thành phố HN xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 269/2022/TLST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 294/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo: Trần Văn T, sinh năm 1975; HKTT: 743 H13 phường Tân M, quận Hoàng M, HN; Chỗ ở: Xóm 1 Quỳnh Đ, xã Vĩnh Q, huyện Thanh T, HN; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 02/10; Nghề nghiệp: Tự do; Con ông: Trần Văn T (đã chết) con bà: Nguyễn Thị T (đã chết). Gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ tư; Vợ là Nguyễn Thị D, sinh năm 1975; con Trần Việt A, sinh năm 2000. Danh chỉ bản số 229 lập ngày 05/06/2022 tại Công an quận HM – thành phố HN bị cáo Tiền sự: Không; Tiền án: 04 tiền án:

- Bản án số 675/2017/HSPT ngày 9/10/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại HN (Phúc thẩm bản án số 95/2017/HSST ngày 14/4/2017 của Tòa án nhân dân thành phố HN, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm đối với Trần Văn T) xử phạt 20 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù từ ngày 22/12/2017.

- Bản án số 15/2019/HSST ngày 24/01/2019 của Tòa án nhân dân quận HBT, thành phố HN xử phạt 24 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù từ ngày 17/7/2020.

- Bản án số 37/HSST ngày 18/3/2003 của Tòa án nhân dân huyện Thanh T, thành phố HN xử phạt 24 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù từ ngày 08/11/2004.

- Bản án số 10/2010/HSST ngày 22/01/2010 của Tòa án nhân dân quận HBT, thành phố HN xử phạt 15 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù từ ngày 21/01/2011.

Bị cáo bị bắt ngày 27/5/2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an quận HM. (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 15 phút ngày 27/5/2022, tại khu vực trước cửa số nhà 11, phố Nguyễn An N, phường Tương M, quận HM, thành phố HN, lực lượng công an kiểm tra, phát hiện Trần Văn T đang điều khiển điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Hon-da Wave biển kiểm soát 29X1-9155 và T có cất giấu trong túi quần phía sau bên trái 01 gói giấy bạc chứa chất bột màu trắng, khai nhận là ma túy mua để sử dụng. Lực lượng công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong số vật chứng nghi ma túy, bàn giao Cơ quan điều tra để xác minh làm rõ.

Quá trình điều tra Trần Văn T khai nhận: Do nghiện ma túy nên khoảng 9 giờ ngày 27/5/2022, T điều khiển xe mô tô đến khu vực đầu ngõ Thống T, Đại L, phường Trương Đ, quận HBT, thành phố HN để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, T đã mua được của 01 người đàn ông không quen biết 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng. T cất gói ma túy vừa mua được vào túi quần phía sau bên trái rồi đi tìm nơi để sử dụng. Khi đi đến khu vực trước cửa số nhà 11 Nguyễn An N, Tương M, Hoàng M, HN thì bị lực lượng công an kiểm tra phát hiện bắt giữ.

Vật chứng của vụ án đã thu giữ gồm: Khi bắt quả tang, lực lượng công an đã thu giữ gói giấy bạc chứa chất bột màu trắng, nghi ma túy; 01 xe mô tô Hon-da Wave biển kiểm soát 29X1-9155, 01 điện thoại di động Masstel màu đen (đã qua sử dụng).

Cơ quan điều tra đã quyết định trưng cầu giám định đối với số vật chứng nghi ma túy thu giữ và niêm phong nêu trên. Tại Kết luận giám định số 3565/KL-KTHS ngày 03/6/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố HN, kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy bạc là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,058 gam.

Về nguồn gốc số ma túy đã thu giữ, Trần Văn T khai mua của đối tượng đàn ông không quen biết tại khu vực đầu ngõ Thống N, Đại L, phường Trương Đ, quận HBT, thành phố HN. Tuy nhiên, ngoài lời khai của T, không có tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh, nên không có cơ sở để xác minh làm rõ.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Hon-da Wave biển kiểm soát 29X1-9155 đã thu giữ khi bắt quả tang Trần Văn T, là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị D sinh năm 1975, là vợ Trần Văn T. Chị D trình bày đã cho T mượn chiếc xe trên để đi lại nhưng không biết việc T sử dụng xe để đi mua ma túy. Quá trình điều tra không đủ chứng cứ chứng minh chị D có hành vi vi phạm liên quan đến hành vi phạm tội trong vụ án, nên không có cơ sở để đề cập xử lý. Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen qua điều tra xác định là tài sản của Trần Văn T và không liên quan đến hành vi phạm tội của T. Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe và điện thoại trên cho chị D.

Đối với số vật chứng là ma túy nêu trên được chuyển đến Chi cục Thi hành án Dân sự quận HM, để chờ quyết định xử lý.

Quá trình điều tra, Trần Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số 264/CT-VKS-HM ngày 06 tháng 9 năm 2022 Viện kiểm sát nhân dân quận HM truy tố bị cáo Trần Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận HM giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt Trần Văn T với mức án từ 16 đến 20 tháng tù giam.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Trần Văn T.

- Tịch thu tiêu hủy 0.058 gam ma túy loại Heroine Tại phiên tòa bị cáo Trần Văn T thừa nhận hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xem xét giảm nhẹ nhất mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận HM, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận HM, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét về hành vi bị truy tố:

Tại các Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ và Biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định; Kết luận giám định số 3565/KL-KTHS ngày 03/6/2022; cùng các lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra thể hiện:

Hồi 10 giờ 15 phút ngày 27/5/2022, tại khu vực trước cửa số nhà 11, phố Nguyễn An N, phường Tương M, quận HM, thành phố HN, Trần Văn T đã có hành vi cất giấu trái phép trên người 0,058 gam ma túy loại Heroine để sử dụng và bị lực lượng công an phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy “ theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Điểm a khoản 1 Điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã…bị kết án về tội này…, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;… ” Bị cáo Trần Văn T là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, do đó cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận HM truy tố bị cáo về tội danh và điều luật đã viện dẫn là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét tính chất vụ án nghiêm trọng bởi lẽ hành vi phạm tội của bị cáo chẳng những đã vi phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, mà còn gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người, là nguyên nhân dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật khác, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình trật tự trị an xã hội ở địa phương, do vậy cần phải xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự đối với bị cáo.

Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý. Do vậy cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục cải tạo bị cáo thành công dân chấp hành pháp luật, đồng thời nhằm răn đe phòng ngừa chung.

Về nhân thân: Bị cáo Trần Văn T nhân thân có 04 tiền án. Bị cáo có 02 lần bị kết án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, lần này bị cáo lại tiếp tục phạm tội, chứng tỏ bị cáo là người coi thường pháp luật. Bị cáo còn có tiền án của bản án số 15/2019/HSST ngày 24/01/2019 bị Tòa án nhân dân quận HBT, thành phố HN truy tố về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích, lần phạm tội này của bị cáo là tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52. Tuy nhiên Hội đồng xét xử cũng xem xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Trần Văn T là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.

- Đối với 0.058 gam ma túy loại Heroine là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Hon-da Wave biển kiểm soát 29X1-9155 đã thu giữ khi bắt quả tang Trần Văn T, là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị D sinh năm 1975, là vợ Trần Văn T. Chị D trình bày đã cho T mượn chiếc xe trên để đi lại nhưng không biết việc T sử dụng xe để đi mua ma túy. Quá trình điều tra không đủ chứng cứ chứng minh chị D có hành vi vi phạm liên quan đến hành vi phạm tội trong vụ án, nên không có cơ sở để đề cập xử lý. Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe cho chị D là đúng và phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen qua điều tra xác định là tài sản của Trần Văn T và không liên quan đến hành vi phạm tội của T. Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc điện thoại trên cho chị D vợ T là đúng và phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Các vấn đề khác: Không.

[5] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51; điểm h khoản 1 điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Các điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử phạt: Bị cáo Trần Văn T: 20 (hai mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù từ ngày 27/5/2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Trần Văn T.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 0.058 gam ma túy loại Heroine.

(Toàn bộ vật chứng hiện đang lưu giữ tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự quận HM theo phiếu nhập kho số 219 ngày 06 tháng 9 năm 2022).

3. Về án phí: Bị cáo Trần Văn T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Văn T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 288/2022/HS-ST

Số hiệu:288/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về