TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO BẰNG, TỈNH CAO BẰNG
BẢN ÁN 28/2024/HS-ST NGÀY 04/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 04 tháng 03 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm – Phòng xét xử Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng, điểm cầu thành phần – Phòng hỏi cung số 1, Nhà tạm giữ Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 01/2024/HSST ngày 05 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2024/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:
Đoàn Mã T - sinh ngày 17 tháng 11 năm 1972 tại thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Nơi cư trú: xóm H, xã V, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Tày; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mã Văn T1 (đã chết) và bà Đoàn Thị H (đã chết); có vợ là Nông Thị C - sinh năm 1982 (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: không.
Đặc điểm nhân thân:
- Năm 2008 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh C ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục về hành vi trộm cắp tài sản.
- Năm 2011 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã C (nay là thành phố C) ra quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện.
- Năm 2012 bị Tòa án nhân dân huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.
- Năm 2015 bị Công an thành phố C xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/9/2023, hiện đang giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố C, tỉnh Cao Bằng; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 11 giờ 10 phút ngày 17/9/2023 tổ công tác Công an phường H đang làm nhiệm vụ tại khu vực tổ D, phường H, thành phố C thì phát hiện Đoàn Mã T, sinh năm 1972 (trú tại: xóm H, xã V, thành phố C, tỉnh Cao Bằng) có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy nên tiến hành kiểm tra, phát hiện, thu giữ 01 (Một) gói giấy bạc màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục lẫn bột;
01 (Một) điện thoại di động. Đoàn Mã T khai nhận: số chất bột màu trắng dạng cục lẫn bột là Heroine của T mua với một người đàn ông không quen biết vào hồi 10 giờ cùng ngày với số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) mục đích để sử dụng cho bản thân.
Cùng ngày, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C đã tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng vật chứng thu giữ của Đoàn Mã T có tổng khối lượng là 0,26g (Không phẩy hai sáu gam).
Bản kết luận giám định số 489/KL-KTHS ngày 22/9/2023 của Phòng K Công an tỉnh C kết luận: chất bột màu trắng bên trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Heroine (Heroin).
Quá trình điều tra Đoàn Mã T khai nhận: Khoảng 10 giờ ngày 17/9/2023 T đi xe ôm từ nhà tại xóm H, xã V, thành phố C đi uống thuốc Methadone tại xóm B, xã C, thành phố C. Sau khi uống thuốc xong, T đi bộ đến khu vực cổng Bệnh viện đa khoa tỉnh C để tìm mua ma túy. Tại đây, T gặp một người đàn ông không quen biết nhìn giống người nghiện nên hỏi mua ma túy với số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng), người đàn ông đồng ý, nhận tiền rồi đi khoảng 10 phút sau quay lại đưa cho Tướng 01 (Một) gói nhỏ giấy bạc màu trắng bên trong có Heroine. Sau khi mua được ma túy Tướng đi tìm nơi sử dụng, khi đi đến khu vực tổ D, phường H, thành phố C thì bị phát hiện, bắt quả tang.
Bản cáo trạng số 11/CT-VKSTP ngày 05/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng quyết định truy tố bị cáo Đoàn Mã T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
Bị cáo thừa nhận bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đã phản ánh đúng hành vi phạm tội của mình và khai bố của bị cáo là người có công với cách mạng.
Trong phần tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Đoàn Mã T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và trình bày quan điểm về nguyên nhân phạm tội, hướng giải quyết vụ án như sau: Đây là vụ án có tính chất nghiêm trọng, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức rõ ma túy là vật cấm tàng trữ, lưu hành xong vì nghiện ma túy nên đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội nên cần xử lý nghiêm khắc và việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định là cần thiết. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu, tuy nhiên quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, nên đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 16 đến 19 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng của vụ án: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy vật chứng là ma túy và trả lại điện thoại di động cho bị cáo vì không liên quan đến hành vi phạm tội.
Bị cáo nhất trí với kết luận của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng về tội danh, hành vi phạm tội, mức hình phạt và quan điểm xử lý vật chứng nên không có ý kiến tranh luận.
Khi được nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, làm người có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội: Lời khai của bị cáo Đoàn Mã T phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Cụ thể như: biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường H lập hồi 11 giờ 20 phút ngày 17/9/2023 và vật chứng thu giữ.
Qua nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử nhận định, có đủ căn cứ chứng minh vào hồi 11 giờ 10 phút ngày 17/9/2023 tại khu vực tổ D, phường H, thành phố C, tổ công tác Công an phường H, thành phố C bắt quả tang Đoàn Mã T đang tàng trữ 0,26g (Không phẩy hai sáu gam) Heroine để sử dụng cho bản thân.
Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về ma túy. Khi thực hiện hành vi, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ tác hại của ma túy nhưng do xem thường pháp luật và để có ma túy sử dụng nên đã thực thiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng truy tố bị cáo Đoàn Mã T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a, ...
c, H1, C1, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
...
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
[3]. Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đi ngược lại chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong cuộc đấu tranh đẩy lùi và bài trừ tệ nạn ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội nên cần xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác, đồng thời phục vụ công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm ma túy ở địa phương.
Nhân thân: bị cáo là người có nhân thân xấu, đã từng bị kết án, bị xử phạt vi phạm hành chính và bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà tiếp tục có hành vi phạm tội đã thể hiện thái độ coi thường pháp luật của bị cáo.
Tình tiết giảm nhẹ: trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội; mặc dù bị cáo khai bố của bị cáo là người có công với cách mạng nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh nên bị cáo chỉ được áp dụng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Tình tiết tăng nặng: không có.
[4]. Hình phạt chính: Căn cứ hành vi phạm tội, nhân thân cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[5]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[6]. Về xử lý vật chứng:
Căn cứ quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xét thấy cần tịch thu tiêu hủy vật chứng là ma túy vì là vật bị cấm tàng trữ, lưu hành và trả lại điện thoại di động cho bị cáo vì không liên quan đến hành vi phạm tội.
[7]. Các nhận định khác:
Đối với nguồn gốc số ma túy, Đoàn Mã T khai mua với một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu nên không có căn cứ kiến nghị mở rộng vụ án.
[8]. Về nghĩa vụ chịu án phí: Bị cáo Đoàn Mã T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng tại phiên tòa về tội danh, hình phạt và quan điểm xử lý vật chứng là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và hoàn cảnh kinh tế của bị cáo, nên cần được chấp nhận.
Xét đề nghị xin được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất của các bị cáo là thể hiện sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nên cần được xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và mức hình phạt:
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự.
Tuyên bố bị cáo Đoàn Mã T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt Đoàn Mã T 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 17/9/2023.
2. Về xử lý vật chứng - Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) phong bì niêm phong mặt trước ghi: “Số 489/KL- KTHS. Hoàn mẫu vụ Đoàn Mã T - Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Kèm theo Kết luận giám định số 489/KL-KTHS ngày 22/9/2023 của Phòng K Công an tỉnh C).
- Trả lại cho bị cáo 01 (Một) chiếc điện thoại di động màu đen, mặt sau có chữ SAMSUNG, có số IMEI (Theo quyết định chuyển vật chứng): 350538282812382/01, điện thoại đã qua sử dụng, do điện thoại không khởi động được nên không kiểm tra thực tế được số IMEI trong máy.
Xác nhận toàn bộ các vật chứng nêu trên đã được chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng theo biên bản giao, nhận vật chứng số 75 ngày 04 tháng 3 năm 2024.
3. Về án phí:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Đoàn Mã T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) nộp ngân sách Nhà nước.
4. Về quyền kháng cáo:
Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 28/2024/HS-ST
Số hiệu: | 28/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về