TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH LỤC, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 28/2024/HS-ST NGÀY 22/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện B, tỉnh H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 24/2024/TLST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2024/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2024 đối với:
- Bị cáo: Đặng Văn Đ, sinh năm 1988 tại xã Tr, huyện B, tỉnh H; nơi cư trú: thôn M, xã Tr, huyện B, tỉnh H; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn X và bà Vũ Thị T; có vợ là Trần Thị Ngọc H và 02 con; tiền án: không; tiền sự: Ngày 13/9/2023 Công an huyện B, tỉnh H Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 6.500.000 đồng về hành vi “Cố ý gây thương tích nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự”; đặc điểm nhân thân: Ngày 19/8/2019 Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh H xử phạt 02 năm 6 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị bắt tạm giữ từ ngày 26/12/2023, chuyển tạm giam từ ngày 04/01/2024 đến nay; có mặt.
- Người làm chứng: Chị Lò Thị T; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ 05 phút ngày 26/12/2023, tổ công tác Công an huyện B phối hợp cùng Công an thị trấn B, huyện B kiểm tra nhà nghỉ 99 thuộc tổ dân phố B, thị trấn B, huyện B, phát hiện tại phòng số 105 của Nhà nghỉ có Đặng Văn Đ và Lò Thị T có biểu hiện nghi vấn liên quan đến tội phạm về ma túy nên yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, Đ đã tự giác lấy từ trong túi áo khoác bên trái đang mặc 01 gói được gói ngoài bằng giấy bạc màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục và 01 gói được gói ngoài bằng giấy nilon màu đen, bên trong chứa các tinh thể màu trắng giao nộp cho lực lượng Công an và khai nhận đó là các gói ma túy cất giấu để sử dụng cho bản thân.
Vật chứng thu giữ: 01 gói được gói ngoài bằng giấy bạc màu trắng và 01 gói được gói ngoài bằng giấy nilon màu đen được niêm phong trong phong bì kí hiệu QT.
Quá trình điều tra Đặng Văn Đ khai nhận như sau: Khoảng 19 giờ ngày 26/12/2023, Đ đi bộ từ nhà ra đường QL21A, sau đó đi nhờ xe mô tô xuống khu vực B thuộc thành phố N, tỉnh Nam Định để tìm mua ma túy về sử dụng. Đến nơi, Đ đi bộ một đoạn thì gặp 01 người đàn ông đứng ở lề đường dáng giống người nghiện ma túy nên lại gần và hỏi: “Anh có Heroine và ma túy đá không để cho em mỗi thứ 100.000 đồng” (ý muốn hỏi mua 100.000 đồng tiền Heroine và 100.000 đồng tiền ma túy đá). Người đàn ông trả lời: “Đưa tiền đây”. Biết người này có ma túy để bán nên Đ lấy 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng đưa cho người đàn ông này, sau khi người đàn ông cầm tiền thì đưa lại cho Đ 01 gói được gói ngoài bằng giấy bạc màu trắng và 01 gói được gói ngoài bằng nilon màu đen. Đ biết là gói Heroine và ma túy đá cần mua nên bỏ vào túi áo khoác bên trái đang mặc rồi đi nhờ xe mô tô về gần khu vực Nhà nghỉ 99 thuộc địa bàn tổ dân phố B, thị trấn B, huyện B. Sau khi xuống xe Đ đi bộ đến Nhà nghỉ 99 và lên phòng 105 của nhà nghỉ để gặp Lò Thị T (Đ và T đã hẹn gặp nhau từ trước ở địa chỉ này). Khi Đ và T đang ngồi nói chuyện trong phòng thì bị Lực lượng Công an huyện B kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, tỉnh H đã tiến hành khám xét khẩn cấp phòng số 105 nhà nghỉ 99 thuộc tổ dân phố B, thị trấn B, huyện B và chỗ ở của Đặng Văn Đ tại thôn M, xã Tr, huyện B, tỉnh H nhưng không thu giữ được đồ vật, tài liệu gì có liên quan.
Tại bản Kết luận giám định số 02/KL-KTHS ngày 02/01/2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H kết luận:
“- Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,140g (Không phẩy một trăm bốn mươi gam), loại Heroine (Heroin).
- Mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu QT gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,197g (Không phẩy một trăm chín mươi bảy gam), loại Methamphetamine.” Cáo trạng số 31/CT-VKS-MT ngày 25/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh H truy tố Đặng Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh H giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đặng Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đặng Văn Đ từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy vật chứng hoàn trả sau giám định.
Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Văn Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nói sau cùng, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định đó.
[2] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Văn Đ đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, kết luận giám định, lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 21 giờ 05 phút ngày 26/12/2023, tại phòng 105 Nhà nghỉ 99 thuộc địa bàn tổ dân phố B, thị trấn B, huyện B, tỉnh H; Đặng Văn Đ đang cất giấu trái phép 0,140 gam ma túy, loại Heroine và 0,197 gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt giữ. Căn cứ Điều 4 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ thì tổng khối lượng Heroine và Methamphetamine Đông cất giữ trái phép để sử dụng là 0,140 + 0,197 = 0,337 gam (dưới 5 gam).
Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội.
Do vậy, hành vi của Đặng Văn Đ đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh H truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy:
Về nhân thân: Bị cáo là đối tượng có tiền sự và có đặc điểm nhân thân xấu, đã bị Công an xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Cố ý gây thương tích nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự” và bị Tòa án xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Đặng Văn Đ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[4] Về hình phạt:
- Hình phạt chính: Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xem xét đánh giá khách quan, toàn diện vụ án cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo để quyết định mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
- Hình phạt bổ sung: Căn cứ biên bản xác minh tài sản của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, tỉnh H thấy bị cáo không có tài sản riêng gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy là Heroine, Methamphetamine hoàn trả sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy. [6] Về các vấn đề khác trong vụ án:
- Về nguồn gốc số ma túy đã thu giữ: Đặng Văn Đ khai mua của một người đàn ông (không biết tên, tuổi, địa chỉ) với giá 200.000 đồng ở khu vực siêu thị B thuộc thành phố N, tỉnh Nam Định. Ngoài lời khai của Đ, không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không đủ căn cứ để điều tra làm rõ.
- Đối với Lò Thị T có mặt cùng Đ tại phòng 105 Nhà nghỉ 99 và chị Trần Thị Yến Ng là người quản lý Nhà nghỉ 99. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định T và chị Ng đều không biết Đ tàng trữ trái phép chất ma túy do vậy cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B không xem xét xử lý đối với T và chị Ng là có căn cứ.
[7] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[8] Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về hình sự: Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
Tuyên bố bị cáo Đặng Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Đặng Văn Đ 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/12/2023.
2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số Heroine, Methamphetamine hoàn trả sau giám định trong 01 phong bì niêm phong, có số 02/KTHS. (Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B và Chi cục thi hành án dân sự huyện B, tỉnh H ngày 26/3/2024).
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Đặng Văn Đ phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 28/2024/HS-ST
Số hiệu: | 28/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Lục - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/04/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về