Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 28/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG NHÉ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 28/2024/HS-ST NGÀY 16/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16/4/2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Đ. Tòa án nhân dân huyện N tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 32/2024/TLST-HS ngày 19/03/2024 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2024/QĐXXST-HS ngày 05/04/2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Văn Ch; Sinh năm 1967 tại xã Gi, huyện Gi, tỉnh N; Nơi đăng ký thường trú: X, xã Gi, huyện Gi, tỉnh N; Nơi đăng ký tạm trú và nơi ở hiện tại: Bản Đ, xã Ch, huyện M, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Nông nghiệp; Trình độ văn hoá: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Văn Đ (đã chết) và bà Vũ thị C (đã chết); có vợ là Vũ Thị H (đã ly hôn năm 1998) và có 01 người con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo chưa bị kết án, chưa bị xử phạt, xử lý hành chính; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 21/12/2023 đến ngày 30/12/2023, bị tạm giam từ 30/12/2023 đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 45 phút ngày 21/12/2023 Bùi Văn Ch một mình đi bộ từ nhà trọ Ch đang thuê (khi đi Ch mang theo 50.000 đồng và 01 ống bơm kim tiêm) ra khu vực bản Đ, xã Ch, huyện M, tỉnh Đ tìm mua ma túy về sử dụng, khoảng 07 giờ 55 phút thì Ch đến nơi, tại đây Ch gặp và mua được của người phụ nữ dân tộc H (lạ mặt) 01 cục nhỏ Heroine, mua với giá tiền 50.000 đồng. Mua bán xong người phụ nữ lạ mặt đi đâu Ch không biết, còn Ch lấy cục Heroine mua được cho vào ống bơm kim tiêm đã mang sẵn theo người và cất giấu ở tay phải rồi đi bộ về nhà trọ, đến 08 giờ cùng ngày khi Ch đang đi bộ trong bản Đ, xã Ch, huyện M tỉnh Đ, thì bị tổ công tác Công an huyện N phát hiện, bắt quả tang, tổ công tác thu giữ trong lòng bàn tay phải của Ch 01 ống bơm kim tiêm bên trong có số Heroine có khối lượng 0,16 gam. Ch khai nhận mục đích mua Heroine về để sử dụng cho bản thân.

Kết luận giám định số 101/KL-KTHS ngày 28/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ kết luận: Khối lượng vật chứng thu giữ của Bùi Văn Ch là 0,16 gam; mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Bùi Văn Ch gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine;

Cáo trạng số 14/CT-VKS-MN ngày 19/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố Bùi Văn Ch để xét xử về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên Cáo trạng truy tố, phần luận tội đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 04 tháng tù; không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự; Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị tịch thu tiêu hủy số Heroine được hoàn lại sau khi trích giám định là 0,08 gam Heroine, 01 ống bơm kim tiêm bằng nhựa trong suốt và 01 phong bì vật chứng ban đầu; Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội đề nghị buộc bị cáo Bùi Văn Chiến phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã tóm tắt ở trên và đúng như Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo không tranh luận gì với luận tội của Viện kiểm sát. Lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét hành vi phạm tội và những căn cứ xác định tội danh của bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo Bùi Văn Ch khai: Ngày 21/12/2023 bị cáo mua được 0,16 gam Heroine của một người phụ nữ dân tộc H lạ mặt với giá tiền 50.000 đồng tại bản Đ, xã Ch, huyện M, tỉnh Đ. Mua được Heroine bị cáo cho vào ống bơm kim tiên bằng nhựa và cất giấu ở tay phải, dùng tay áo phủ kín rồi đi bộ về nhà trọ, đến 8 giờ cùng ngày khi bị cáo đang đi bộ trong bản Đ, xã Ch, huyện M, tỉnh Đ, thì bị tổ công tác Công an huyện N phát hiện, bắt quả tang. Mục đích bị cáo mua Heroine về để sử dụng cho bản thân. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai và các bản cung có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội, phù hợp với kết luận giám định, kết luận điều tra, cáo trạng truy tố và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ để xác định hành vi tàng trữ trái phép 0,16 gam Heroine với mục đích để sử dụng của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo để xét xử về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2] Xét tính chất vụ án:

Đây là vụ án nghiêm trọng về ma túy, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách thống nhất quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, đi ngược lại đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong việc đấu tranh phòng ngừa các tội phạm về ma túy, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[3] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo có bố đẻ là ông Bùi Văn Đ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng 3, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về áp dụng hình phạt đối với bị cáo:

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy cần xử phạt bị cáo nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 04 tháng tù. Xét đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật nên cần xử phạt bị cáo như đề nghị của Viện kiểm sát.

[5] Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, bị cáo còn có thể chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền, tuy nhiên xét hoàn cảnh kinh tế gia đình của bị cáo khó khăn, xác minh tại nơi ở của bị cáo không có tài sản gì có giá trị, hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

[6] Đối với người phụ nữ dân tộc H đã bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết tên tuổi địa chỉ của người này, Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh nên không có cơ sở để xử lý.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với 0,08 gam Heroine hoàn lại sau khi đã trích giám định (Khối lượng Heroine thu giữ là 0,16 gam, đã trích toàn bộ gửi giám định, hoàn lại mẫu vật sau khi giám định là 0,08 gam Heroine), 01 ống bơm kim tiêm bằng nhựa trong suốt và 01 phong bì niêm phong vật chứng, xét thấy đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành, vật chứng không có giá trị sử dụng cần căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy.

[8] Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội, buộc bị cáo Bùi Văn Chiến phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Về quyền kháng cáo:

Theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo bản án.

[10] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Văn Ch phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt bị cáo Bùi Văn Ch 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, ngày 21/12/2023.

2. Về vật chứng vụ án:

Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu huỷ 0,08 gam Heroine còn lại sau khi đã trích giám định, 01 ống bơm kim tiêm bằng nhựa trong suốt và 01 phong bì niêm phong vật chứng. Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/3/2024 giữa Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

3. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội, buộc bị cáo Bùi Văn Chiến phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 16/4/2024).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

8
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 28/2024/HS-ST

Số hiệu:28/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Nhé - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về