Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 28/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐƯỜNG, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 28/2023/HS-ST NGÀY 23/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 5 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu là điểm cầu trung tâm xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 31/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn S Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 27/6/1994; Tại: TU, Lai Châu;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản NS, xã MK, huyện TU, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân Tộc: Lào; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông: Lò Văn P (đã chết); con bà Lò Thị B, sinh năm 1963. Gia đình bị cáo có 05 anh em ruột. Bị cáo là con thứ năm trong gia đình. Vợ: Lò Thị Đ, sinh năm 1996, con: 02 người con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04/01/2023 đến ngày 13/01/2023 bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tam Đường cho đến nay.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Lò Thị L, sinh năm 1970. Địa chỉ: Bản NT, xã NT, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu. (có mặt) * Điểm cầu thành phần: Nhà tạm giữ công an huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu gồm có: Bị cáo Lò Văn S có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Lò Văn S, sinh ngày 27/6/1994, trú tại bản NS, xã MK, huyện TU, tỉnh Lai Châu, S khai nhận bản thân là người nghiện chất ma túy. Khoảng 13 giờ ngày 31/12/2022, S đến nhà Hoàng Văn L, sinh năm 1988, ở bản N, xã MK, huyện TU, tỉnh Lai Châu hỏi mua ma túy để sử dụng. Tại nhà Liên, S mua của Liên 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu xanh với giá 370.000 đồng. S cầm gói Heroine về nhà và chia gói Heroine thành 07 gói Heroine (đều được gói bằng mảnh nilon màu trắng). Sau đó, S sử dụng hết 01 gói, còn 06 gói S gói chung lại bằng mảnh giấy màu trắng rồi cất giấu trong phòng ngủ, không cho ai biết. Khoảng 18 giờ ngày 03/01/2023, S rủ Lò Văn B, sinh năm 1995, trú tại bản NT, xã NT, huyện Tam Đường đi từ xã NT về nhà S ở bản Nậm So, xã MK, huyện TU, mục đích lấy Heroine để sử dụng. S nói dối Ban là đi về nhà thăm con ốm. Sau đó, S mượn xe mô tô biển kiểm soát 25B1-724.xx của bà Lò Thị L (mẹ vợ S) chở Ban đi về nhà, S không nói cho bà Lanh biết việc sử dụng xe đi lấy Heroine. Tại nhà S, S lấy 06 gói Heroine cất giấu trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe mô tô chở Ban đi về xã NT, huyện Tam Đường, S không nói cho Ban biết việc đang cất giấu Heroine trên người. Hồi 00 giờ 20 phút ngày 04/01/2023, khi Lò Văn S đi đến bản Phiêng Pẳng, xã Bản Bo, huyện Tam Đường thì bị Công an xã Bản Bo phát hiện, bắt quả tang, S ném 06 gói Heroine xuống lề đường để tiêu hủy chứng cứ. Công an xã Bản Bo đã thông báo cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tam Đường tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu giữ và niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Tam Đường tiến hành khám xét khẩn cấp người, nơi ở của Hoàng Văn L, sinh năm 1988, trú tại bản N, xã MK, huyện TU, tỉnh Lai Châu. Kết quả: phát hiện, thu giữ 04 gói Heroine (hai gói đều được gói bằng nilon màu xanh, hai gói đều được gói bằng nilon màu trắng) có tổng khối lượng 45,44 gam. Quá trình điều tra, Liên không thừa nhận việc bán Heroine cho Lò Văn S, số Heroine bị Cơ quan điều tra thu giữ là của Liên để sử dụng cho bản thân. Ngày 12/01/2023, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định khởi tố vụ án số 07, khởi tố bị can số 08 đối với Hoàng Văn L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại Khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự và chuyển giải quyết theo thẩm quyền.

Tại bản Kết luận giám định tư pháp số 07/KLGĐ ngày 04/01/2023 của người giám định theo vụ việc kết luận: Số chất bột màu trắng thu giữ của Lò Văn S có tổng khối lượng là: 0,20 gam.

Tại bản Kết luận giám định số 74/KL-KTHS ngày 08/01/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 06 mẫu chất bột, màu trắng gửi giám định là ma túy, loại: Heroin.

Bản cáo trạng số 22/CT-VKSTĐ, ngày 13/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đường truy tố bị cáo Lò Văn S về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận điều tra và bản cáo trạng nêu trên.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Lò Thị L trình bày: Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 25B1-724.xx là tài sản hợp pháp của bà Lò Thị L, chiếc xe trên do bà Lanh mua nhưng khi đăng ký xe do bà Lanh không có giấy chứng minh nhân dân nên đã nhờ con rể là Lò Văn Ma đứng tên. Khi bị cáo Lò Văn S mượn chiếc xe trên để đi về nhà, bà Lanh không biết bị cáo Lò Văn S sử dụng chiếc xe trên vào mục đích phạm tội, nay bà Lanh không có phương tiện đi lại nên đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho bà Lanh chiếc xe, ngoài ra không có yêu cầu gì thêm.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát huyện Tam Đường giữ nguyên quan điểm truy tố của mình đồng thời phân tích, đánh giá toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lò Văn S phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lò Văn S từ 13 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 04/01/2023. Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì Công văn do Công an huyện Tam Đường phát hành niêm phong lại và dán kín các mép. Mặt trước phong bì ghi: “Phong bì niêm phong và sáu mảnh nilon màu trắng gói vật chứng ban đầu, mảnh giấy trắng gói vật chứng ban đầu thu giữ của Lò Văn S, sinh năm 1994, trú tại bản NS, xã MK, huyện TU, tỉnh Lai Châu”. Trả lại cho bà Lò Thị L: 01 xe mô tô WAVE RSX, màu đỏ đen, BKS: 25B1 - 724.xx. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn S theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Lò Văn S không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đường.

Tại lời nói sau cùng bị cáo Lò Văn S xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đường, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đường, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Tại phiên tòa hôm nay cũng như quá trình điều tra bị cáo Lò Văn S đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ căn cứ khẳng định: Hồi 00 giờ 20 phút ngày 04/01/2023, tại bản Phiêng Pẳng, xã Bản Bo, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu, Lò Văn S đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 06 gói Heroine có tổng khối lượng 0,20 gam, mục đích để sử dụng thì bị Công an xã Bản Bo, huyện Tam Đường phát hiện, bắt quả tang Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có đủ khả năng nhận biết ma túy là độc dược gây nghiện, làm tổn hại cho sức khỏe, nhân phẩm của con người và là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Như vậy, đủ cơ sơ để khẳng định hành vi của bị cáo Lò Văn S đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là người dân tộc thiểu số; vợ bị cáo là Lò Thị Đôi đã bỏ nhà đi từ năm 2020 cho đến nay không liên lạc về và không gửi tiền chu cấp cho các con do đó bị cáo được xác định là lao động duy nhất trong gia đình; gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo. Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo làm ruộng, thu nhập không ổn định, gia đình thuộc hộ cận nghèo. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Đối với 0,20 gam (Không phẩy hai mươi gam) heroine thu giữ của bị cáo Lò Văn S đã gửi đi giám định không hoàn lại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với một phong bì Công văn do Công an huyện Tam Đường phát hành niêm phong lại và dán kín các mép. Mặt trước phong bì ghi: “Phong bì niêm phong và sáu mảnh nilon màu trắng gói vật chứng ban đầu, mảnh giấy trắng gói vật chứng ban đầu thu giữ của Lò Văn S, sinh năm 1994, trú tại bản NS, xã MK, huyện TU, tỉnh Lai Châu” là công cụ bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội, vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 xe mô tô WAVE RSX, màu đỏ đen, biển kiểm soát 25B1 - 724.xx là tài sản hợp pháp của bà Lò Thị L khi bị cáo Lò Văn S mượn xe bà Lanh hoàn toàn không biết bị cáo sử dụng xe vào việc phạm tội, nay bà Lanh không có phương tiện đi lại nên cần trả lại chiếc xe trên cho bà Lò Thị L.

[6] Những vấn đề liên quan:

Về nguồn gốc ma túy, bị cáo Lò Văn S khai mua của Hoàng Văn L. Cơ quan điều tra đã tiến hành lấy lời khai, đối chất giữa S và Liên nhưng Liên không thừa nhận việc bán Heroine cho S. Ngoài lời khai của S, quá trình điều tra không thu thập được tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh. Do đó, không đủ căn cứ để kết luận Hoàng Văn L thực hiện hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Đối với Lò Văn B là người đi cùng Lò Văn S, Lò Thị L là người cho S mượn chiếc xe mô tô biển kiểm soát 25B1-724.xx. Quá trình điều tra xác định, Ban không biết việc S tàng trữ Heroine trên người, Lanh không biết việc S sử dụng xe mô tô để đi lấy Heroine. Do đó, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với Lò Văn B, Lò Thị L là đúng quy định.

[7] Về án phí:

Gia đình bị cáo Lò Văn S thuộc hộ cận nghèo theo quy định Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án bị cáo Lò Văn S thuộc trường hợp miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” 2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn S 13 (Mười ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/01/2023.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về vật chứng của vụ án:

Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì Công văn do Công an huyện Tam Đường phát hành niêm phong lại và dán kín các mép. Mặt trước phong bì ghi: “Phong bì niêm phong và sáu mảnh nilon màu trắng gói vật chứng ban đầu, mảnh giấy trắng gói vật chứng ban đầu thu giữ của Lò Văn S, sinh năm 1994, trú tại bản NS, xã MK, huyện TU, tỉnh Lai Châu”.

Trả lại cho bà Lò Thị L: 01 xe mô tô WAVE RSX, màu đỏ đen, BKS: 25B1 - 724.xx.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 14giờ 20 phút ngày 14/4/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tam Đường với Chi Cục thi hành án dân sự huyện Tam Đường).

4. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn S.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình lên Tòa án nhân dân cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

45
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 28/2023/HS-ST

Số hiệu:28/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đường - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về