TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K - TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 28/2022/HS-ST NGÀY 26/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26/4/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 24/2022/HSST ngày 25/3/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2022/QĐXXST-HS ngày 14/4/2022 đối với:
Bị cáo: họ và tên Phạm Văn D, sinh năm 2000, tại huyện K, tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: xóm 8, xã Đ, huyện K, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T và bà Phạm Thị V; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không;
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/12/2021, chuyển tạm giam ngày 23/12/2021 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay (có mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Anh Phạm Văn Đ, sinh năm 1988; nơi cư trú: xóm 8, xã Đ, huyện K, tỉnh Ninh Bình (có mặt).
- Anh Tạ Văn T1, sinh năm 1991; nơi cư trú: xóm 4, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình (vắng mặt).
Người chứng kiến: anh Phạm Văn K, anh Nguyễn Văn K1 (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phạm Văn D là người sử dụng trái phép chất ma túy. Chiều ngày 15/12/2021, Phạm Văn D điều khiển xe môtô BKS 35B1-091.24 từ nhà đến khu vực gần chợ L thuộc xóm 9, xã L, huyện K, tỉnh Ninh Bình tìm mua ma túy. Tại đây, D mua được 01 gói ma túy đựng trong ống hút màu đỏ bịt kín hai đầu với giá 300.000 đồng. Sau đó, D bỏ gói ma túy vào trong bao thuốc lá Thăng Long cầm ở tay trái, điều khiển xe đi tìm nơi sử dụng. Đến khoảng 15 giờ 45 phút cùng ngày, khi đi đến khu vực đường quốc lộ 12B đoạn thuộc xóm 5, xã T, huyện K, tỉnh Ninh Bình, D dừng xe định mua thuốc lá thì bị Tổ công tác Công an huyện K phát hiện bắt quả tang.
Thu giữ của D 01 đoạn ống hút màu đỏ bịt kín hai đầu, kích thước (2x0,5)cm;
01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 07 điếu thuốc; 01 xe môtô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS màu đen, trắng mang BKS 35B1- 091.24.
Kiểm tra 01 đoạn ống hút màu đỏ thu giữ bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, cân xác định khối lượng là 0,27 gam, ký hiệu M trưng cầu giám định.
Tại bản kết luận giám định số 33/KLGĐ-PC09-MT ngày 22/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: “Mẫu chất dạng tinh thể màu trắng gửi giám định ký hiệu M có khối lượng là 0,2644gam là ma túy, loại Methamphetamine.” Bản cáo trạng số 32/CT-VKS ngày 24/3/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Phạm Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát huyện K vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung cáo trạng và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Phạm Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Văn D từ 14 đến 17 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 15/12/2021. Về xử lý vật chứng: áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong sau giám định ghi số 33/KLGĐ- PC09-MT, bên trong có chứa 0,1795 gam Methamphetamine còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ gói, vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 01 đoạn ống hút, 01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 07 điếu thuốc. Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện toàn bộ hành vi nêu trên và không có ý kiến gì khác, không tranh luận với luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm một phần hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, tội danh và điều luật áp dụng: tại phiên tòa bị cáo khai nhận do có nhu cầu sử dụng ma túy nên sáng ngày 15/12/2021, bị cáo điều khiển xe môtô từ nhà khu vực gần chợ L, thuộc xóm 9, xã L, huyện K, tỉnh Ninh Bình tìm mua ma túy. Bị cáo gặp một người đàn ông không quen biết hỏi và mua được 01 gói ma túy loại Methamphetamine với giá 300.000 đồng rồi bỏ vào bao thuốc lá Thăng Long cầm ở tay trái đi tìm nơi sử dụng, khoảng 15 giờ 45 phút cùng ngày khi đến khu vực đường quốc lộ 12B đoạn thuộc xóm 5, xã T, huyện K, bị cáo dừng xe lại để mua thêm thuốc lá, thì bị tổ công tác Công an huyện K phát hiện, bắt quả tang, thu giữ của bị cáo 01 ống hút bằng nhựa bên trong là ma túy có khối lượng 0,2644gam, ma túy loại Methamphetamine với mục đích sử dụng cho bản thân; 01 bao thuốc lá Thăng Long bên trong có 07 điều thuốc; 01 xe môtô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS màu đen, trắng mang BKS 35B1- 091.24. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, Biên bản cân xác định khối lượng, Kết luận giám định gói bột thu giữ của bị cáo và lời khai của người chứng kiến đã có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép 0,2644gam ma túy, loại Methamphetamine để sử dụng cho bản thân là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất gây nghiện, nhưng vẫn cố ý thực hiện, hành vi đó gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự ở địa phương. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy
1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm :
… c, Methamphetamine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.
Từ sự phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định bị cáo Phạm Văn D đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như đã được viện dẫn. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về nhân thân: bị cáo có nhân tốt.
Về tình tiết tăng nặng: không có.
Về tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.
Hội đồng xét xử xét thấy, sau khi đối chiếu về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cũng như nguyên nhân và điều kiện phạm tội của bị cáo, thì hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật bằng hình thức cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.
[3] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo không có tài sản riêng, hành vi phạm tội của bị cáo chỉ nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu cá nhân, không mang tính chất vụ lợi. Vì vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Về nguồn gốc ma túy loại Methamphetamine: Bị cáo khai mua của một người đàn ông không quen biết, đeo khẩu trang ở khu vực gần chợ Lưu Phương, có gặp lại bị cáo cũng không nhận dạng được. Vì vậy, cơ quan điều tra Công an huyện K không đủ cơ sở để điều tra.
[5] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:
Đối với 01 xe môtô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS màu đen, trắng mang BKS 35B1-091.24 là tài sản hợp pháp của anh Phạm Văn Đ, sinh năm 1988, trú tại xóm 8, xã Đ, huyện K (là anh trai bị cáo D), anh Đ không biết D mượn xe để đi mua ma túy. Cơ quan CSĐT Công an huyện K đã trả lại cho anh Đ chiếc xe nói trên là đúng quy định của pháp luật.
Đối với 01 phong bì niêm phong sau giám định ghi số 33/KLGĐ-PC09-MT, bên trong có chứa 0,1795 gam Methamphetamine còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ gói, vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 01 đoạn ống hút, 01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 07 điếu thuốc. Đây là vật cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng cần tịch thu cho tiêu hủy.
[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố: bị cáo Phạm Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Xử phạt bị cáo Phạm Văn D 14 (mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 15/12/2021.
2. Về xử lý vật chứng: tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì niêm phong sau giám định ghi số 33/KLGĐ-PC09-MT, bên trong có chứa 0,1795gam Methamphetamine còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ gói, vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 01 đoạn ống hút, 01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 07 điếu thuốc.
(Chi tiết vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 25/3/2022 giữa cơ quan CSĐT công an huyện K với Chi cục THADS huyện K)
3. Về án phí: buộc bị cáo Phạm Văn D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 28/2022/HS-ST
Số hiệu: | 28/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về