Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 277/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 277/2022/HS-PT NGÀY 05/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 131/2022/HS-PT ngày 22/02/2022 đối với bị cáo Trần Nguyên V do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 28/2022/HS-ST ngày 12 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo: Trần Nguyên V, sinh ngày 01/01/1982 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: Số 86/23/7 đường số 14, Phường 8, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Số 1306/7 đường Q, Phường 14, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Quang G và bà Nguyễn Thị Kim C; vợ, con: Không; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 17/5/2017 bị xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong hình phạt tù vào 06/7/2018; bị bắt, tạm giam từ ngày 28/7/2020, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Thanh Bảo D - Công ty Luật TNHH MTV D thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngoài ra còn có bị cáo Nguyễn Chí C, Lâm Thúy L không có kháng cáo và không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 16 giờ 40 phút ngày 28/7/2020, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Phòng 5 – Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Bộ Công an; Công an Quận A, Công an quận B và Công an phường B, quận B đi tuần tra trên đường Tỉnh lộ 10 thì phát hiện Trần Nguyên V đang điều khiển xe mô tô hiệu Honda SH, màu trắng, biển số 59H1-391.91. Qua kiểm tra, Tổ công tác phát hiện tại vị trí để chân giữa chiếc xe của V có 01 túi giấy màu đen bên ngoài ghi chữ BELLEZZA, bên trong có: 01 tất chân, bên trong tất chân có 04 gói nylon chứa tổng cộng 24,8702 gam Ketamine; 01 gói nylon chứa 46 viên nén, có khối lượng 16,1422 gam là ma túy loại MDMA; 01 hộp giấy màu đen bên ngoài ghi chữ OLAZ, bên trong hộp giấy có 04 gói nylon chứa tổng cộng 298,72 gam Methamphetamine.

Đến 22 giờ 15 phút cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra, khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Nguyên V, tại nhà Số 1306/7 đường Q, Phường 14, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh thì phát hiện và thu giữ 14,1628 gam Ketamine; 3,7920 gam Methamphetamine; 49,9048 gam MDMA và trong nồi cơm điện để trong nhà bếp có 02 bịch nylon màu đen được quấn băng keo bên ngoài, bên trong có 199,83 gam Methamphetamine. Kiểm tra chiếc xe ô tô hiệu KIA Sports, màu trắng, biển số 94A-031.97 là phương tiện của V đang quản lý, sử dụng đang để trước nhà thì thu giữ 01 gói nylon chứa 4,9350 gam MDMA; 01 gói nylon chứa 7,6809 gam Ketamine để tại hàng ghế sau của xe.

Mở rộng điều tra vụ án, lúc 00 giờ 30 phút ngày 29/7/2020, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Công an Phường 8, quận G kiểm tra hành chính phòng trọ số 503 nhà số 40/19 Đường số 19, khu phố 2, Phường 8, quận G là nơi ở của Lâm Thúy L thì phát hiện và thu giữ 20,1853 gam Methamphetamine và 8,8365 gam Ketamine.

Căn cứ vào lời khai của V và L, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Thành phố Hồ Chí Minh mời Nguyễn Chí C về trụ sở làm rõ một số nội dung liên quan, sau đó thi hành lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với C. Tiến hành khám xét chỗ ở của Công tại nhà số 240/4 đường C, Phường 9, quận G, kết quả không phát hiện, thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan.

Tất cả số vật chứng thu giữ đã được giám định là ma túy theo kết quả thể hiện tại các bản Kết luận giám định số 1302, 1303/KLGĐ-H ngày 06/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự (PC09), Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Quá trình điều tra các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như sau: Trần Nguyên V bắt đầu sử dụng trái phép chất ma túy từ năm 2016. Số ma túy bị thu giữ là của V mua của một người đàn ông không rõ lại lịch khoảng 3 đến 4 lần, mỗi lần từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng. Đến ngày 24/7/2020, V mua thêm của người tên Văn (không rõ lại lịch) 200 gam ma túy tổng hợp (đá), 100 viên ma túy (thuốc lắc) và 20 gam Ketamine với số tiền 64.000.000 đồng tại khu vực giao lộ đường I và đường T thuộc quận G rồi cất giấu tại chỗ ở, trong xe ô tô để sử dụng cho bản thân.

Từ khoảng tháng 6/2020 V có quan hệ tình cảm với đối với Lâm Thúy L. Đến ngày 24/7/2020, L nói buồn chuyện gia đình nên xin V ma túy “đá” để sử dụng. V đồng ý nên mang ma túy đến đưa cho L tại sân nhà nơi L ở. Thông qua L, V quen biết Nguyễn Chí C, do ma túy V mua trước đó chất lượng kém nên khoảng 15 giờ 00 phút ngày 28/7/2020, V hỏi mượn Công 50 gam ma túy “đá” để sử dụng và dự định lấy ma túy kém chất lượng trả lại cho C. C đồng ý cho mượn nên gói 50 gam ma túy vào bịch màu đen rồi mang đến chỗ ở của V đưa cho V. V để gói ma túy này với các gói ma túy mua trước đó treo trên xe rồi đi câu cá thì bị bắt quả tang. Riêng 02 gói ma túy thu giữ trong nồi cơm điện V khai không phải của V.

Đối với Nguyễn Chí C bắt đầu sử dụng trái phép chất ma túy từ năm 2015 và đã từng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, C quen biết L và V vào khoảng tháng 6/2020. C đã mua ma túy của L 03 lần, mỗi lần 50 gam, với giá 14.000.000 đồng để sử dụng, cụ thể: lần 1 và lần 2 vào ngày 14/7/2020 và ngày 20/7/2020, C đã trả tiền cho L và sử dụng cùng bạn bè hết số ma túy này. Riêng lần 3 vào ngày 27/7/2020, C cũng mua 50 gam, giá 14.000.000 đồng nhưng chưa trả tiền cho L và sau khi mua được ma túy thì khoảng 15 giờ 00 phút ngày 28/7/2020, V hỏi mượn số ma túy này và C đồng ý cho V mượn.

Đối với Lâm Thúy L bắt đầu sử dụng trái phép chất ma túy từ tháng 11/2019 cùng với người sống chung như vợ chồng với L là Từ Vũ B. Đến ngày 18/12/2019, L và B bị Công an quận G bắt, khởi tố về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. L được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú do đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Lời khai của L phù hợp với lời khai của V về mối quan hệ với V, về nguồn gốc số ma túy “đá” L bị bắt quả tang. Sau khi V cho L ma túy, L chia nhỏ cất giấu tại chỗ ở để sử dụng. L đã sử dụng được 01 lần, số còn lại chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện, thu giữ. Còn khối lượng chất ma túy, loại Ketamine thì được một người bạn không rõ lai lịch cho L khi L đi chơi tại một quán Bar tại quận G. L không thừa nhận đã bán ma túy cho C như lời khai của C. Cơ quan điều tra đã tiến hành cho C và L đối chất nhưng kết quả L vẫn không thừa nhận việc bán ma túy cho C.

Tại Bản Cáo trạng số 155/CT-VKS-P1, ngày 16/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trần Nguyên V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm h khoản 4 Điều 249 Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Nguyễn Chí C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự và truy tố bị cáo Lâm Thúy L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 28/2022/HS-PT ngày 12 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Trần Nguyên V tù chung thân về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 28/7/2020.

Phạt bổ sung bị cáo Trần Nguyên V số tiền 20.000.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn Quyết định về tội danh, hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Chí C, Lâm Thúy L; về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

- Ngày 14/01/2022 bị cáo Trần Nguyên V có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Trần Nguyên V khai nhận bản án sơ thẩm kết tội bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy là không oan. Tuy nhiên bị cáo cho rằng số lượng ma túy do cơ quan Công an thu giữ trong nồi cơm điện tại khu vực bếp là không phải của bị cáo vì phòng bếp là để sử dụng chung cho nhà trọ và bị cáo không sử dụng phòng bếp. Do đó bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và giảm số tiền phạt bổ sung.

Đại diện Viện Kiểm sát phát biểu quan điểm: Đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo làm trong hạn luật định nên đủ điều kiện để xem xét theo trình tự phúc thẩm. Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, nhận thấy cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Trần Nguyên V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 4 Điều 249 Bộ luật hình sự và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ hình phạt như bản án đã tuyên là phù hợp với quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị Hội đồng xét xử bác đơn kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người bào chữa chỉ định cho bị cáo có Luật sư Nguyễn Thanh Bảo D trình bày ý kiến: Đề nghị xem xét lại số lượng ma túy do Công an thu giữ trong nồi cơm điện tại khu vực bếp không phải của bị cáo. Do đó đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo và xử phạt bị cáo 20 năm tù cũng đủ thời gian giáo dục bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Trần Nguyên V đảm bảo đúng hình thức và trong thời hạn luật định, đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Căn cứ lời khai của bị cáo Trần Nguyên V tại phiên tòa, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, lời khai người làm chứng, bản kết luận giám định cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 28/7/2020 Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết hợp với Công an Quận A và Công an quận B đi tuần tra và bắt quả tang Trần Nguyên V có hành vi cất giấu ma túy gồm 24,8702 gam Ketamine; 16,1422 gam MDMA; 298,72 gam Methamphetamine trên xe hon da SH biển số 59H1-391.91 do bị cáo đang điều khiển. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Nguyên V, tại nhà Số 1306/7 đường Q, Phường 14, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh thì phát hiện và thu giữ 14,1628 gam Ketamine; 3,7920 gam Methamphetamine; 49,9048 gam MDMA và trong nồi cơm điện để trong nhà bếp cất giấu 199,83 gam Methamphetamine. Kiểm tra chiếc xe ô tô hiệu KIA Sports, màu trắng, biển số 94A-031.97 là phương tiện của V đang quản lý, sử dụng đang để trước nhà thì thu giữ 01 gói nylon chứa 4,9350 gam MDMA;

01 gói nylon chứa 7,6809 gam Ketamine. Khám xét nơi ở của Lâm Thúy L thu giữ 20,1853 gam Methamphetamine và 8,8365 gam Ketamine (Trong đó do V cho L 20,1853 gam Methamphetamine ).

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cho rằng số lượng ma túy 199,83 gam Methamphetamine do Công an thu giữ trong nồi cơm điện tại phòng trọ của bị cáo đang ở không phải của bị cáo. Tuy nhiên căn cứ vào biên bản khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Nguyên V thu giữ ma túy tại phòng ngủ của V và ma túy cất giấu trong nồi cơm điện để trong phòng bếp của bị cáo đang ở; căn cứ sơ đồ hiện trường, bản ảnh của hiện trường phòng trọ của V tại nhà Số 1306/7 đường Q, Phường 14, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh và lời khai của Chủ nhà trọ số 1306/7 đường Q xác định phòng bếp để nồi cơm điện có cất giấu ma túy thuộc phòng trọ của bị cáo V đang ở, mỗi phòng trọ đều có bếp sử dụng riêng không sử dụng bếp chung. Bị cáo cũng thừa nhận bị cáo ở tại phòng trọ này từ đầu đầu năm 2020 đến tháng 7 năm 2020 thì bị bắt cùng tang vật là ma túy ngoài ra không còn ai khác ở chung với bị cáo. Nên không có căn cứ chấp nhận lời nại ra của bị cáo.

Do đó bản sơ thẩm xác định bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tàng trữ ma túy trái phép với tổng số lượng ma túy ở thể rắn gồm 522,5273 gam Methamphetamine, 70,982 gam MDMA và 46,7139 gam Ketamine theo kết quả giám định tại Kết luận giám định số 1302, 1303/KLGĐ-H ngày 06/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự (PC09) Công an Thành phố Hồ Chí Minh và tuyên xử bị cáo Trần Nguyên V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do đó cần phải xử phạt nghiêm khắc đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã cân nhắc, xem xét nhân thân của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự và tuyên phạt bị cáo V với mức án tù chung thân và tuyên phạt bổ sung 20.000.000 đồng đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo.

Tại cấp phúc thẩm, bị cáo V kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng bị cáo không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ mới theo quy định của pháp luật nên không có căn cứ để giảm hình phạt theo yêu cầu kháng cáo bị cáo và lời đề nghị của luật sư bào chữa cho bị cáo.

Do đó giữ nguyên bản án sơ thẩm theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ và đúng pháp luật.

[4] Về án phí hành sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Vũ phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Chí C, Lâm Thúy L; về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, 356 Bộ luật tố tụng hình sự Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Nguyên V. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2022/HS-ST ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

2. Áp dụng điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 39 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Trần Nguyên V Tù chung thân về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù được tính từ ngày 28/7/2020. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Phạt bổ sung bị cáo Trần Nguyên V số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) sung công quỹ nhà nước.

3. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Trần Nguyên V phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Chí C, Lâm Thúy L; về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 277/2022/HS-PT

Số hiệu:277/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về