TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN L, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 277/2021/HS-ST NGÀY 14/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận L, Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 278/2021/TLST-HS ngày 24 tháng 11 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 304/2021/QĐXXST-HS ngày 01/12/2021 đối với các bị cáo:
1. TRẦN THU H – sinh năm: 1988; HKTT: Tổ A Thị Trấn Y, huyện Yên Bình, Tỉnh Yên Bái; Chỗ ở: không nơi ở cố định; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Tự do; con ông Trần Văn H và bà Hoàng Thị H1; Có 01 con SN 2011; TATS: Theo danh chỉ bản số 391 ngày 27/06/2021 của Công an quận L lập và lý lịch địa phương cung cấp thì bị cáo không có tiền án, tiền sự.
Bị cáo bị bắt ngày 17/06/2021. (Có mặt).
2. NGUYỄN MẠNH V – sinh năm: 1991; HKTT: Tổ 8 N, L, Hà Nội; Chỗ ở: phòng 202 nhà nghỉ T số 8 G, Ngọc Lâm, L, Hà Nội; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Tự do; con ông Nguyễn Mạnh H4 và bà Lê Thị H3; TATS: Theo danh chỉ bản số 387 ngày 27/06/2021 của Công an quận L lập và lý lịch địa phương cung cấp thì bị cáo có 01 tiền sự: Năm 2018 Cai nghiện 24 tháng. Tháng 10/2020 về địa phương (chưa hết thời hiệu).
Bị cáo bị bắt ngày 17/06/2021. (Có mặt).
3. VI THANH T – sinh năm: 2000; HKTT: Thôn C, xã C, Quỳ Châu, Nghệ An; Chỗ ở: phòng 2 nhà nghỉ T số 8 G, Ngọc Lâm, L, Hà Nội; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Tự do; con ông Vi Văn Huyết và bà Mạc Thị Lan; TATS: Theo danh chỉ bản số 386 ngày 27/06/2021 của Công an quận L lập và lý lịch địa phương cung cấp thì bị cáo có 01 tiền sự, 01 tiền án:
Tiền sự: Ngày 11/6/2019 đi cai nghiện bắt buộc tại trung tâm số 6 – Hà Nội. Ngày 26/5/2021 chấp hành xong. Chưa hết thời hiệu.
Tiền án: Bản án số 66/HSST ngày 03/7/2018 Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, Hà Nội xử phạt 10 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/2/2019. Tại thời điểm phạm tội bị can 17 tuổi 10 tháng 11 ngày. Do đó bị cáo đương nhiên được xóa án tích theo quy định điểm b khoản 1 Điều 107 BLHS.
Bị cáo bị bắt ngày 17/06/2021. (Có mặt).
Luật sư bào chữa cho bị cáo Vi Thanh T : Bà Đỗ Thị H – Văn phòng Luật sư N – Phòng Luật sư Thành phố Hà Nội (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 17/6/2021, tổ công tác Công an phường Ngọc Lâm kiểm tra hành chính phòng 202 nhà nghỉ T số 8 G thuộc phường Ngọc Lâm – L – Hà Nội phát hiện bắt quả tang đối tượng: Nguyễn MẠNH V , Vi Thanh T có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.
- Vật chứng thu giữ tại phòng 202:
+ 45 (bốn mươi lăm) gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng thu tại ngăn kéo kệ ti vi và trên cửa sổ phòng (V và T khai là ma túy Heroine mua về để sử dụng).
+ 02 (hai) gói giấy màu trắng thu tại túi quần bên phải của T (V và T khai là ma túy heroine mua về để sử dụng).
+ 01 điện thoại nokia 105, 01 điện thoại masstel thu giữ của T .
+ 01 điện thoại OPPO màu đen thu giữ của V - Tại bản kết luận giám định số: 5082 ngày 25/6/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội kết luận:
+ Chất bột màu trắng bên trong 02 (hai) gói giấy màu trắng đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng: 0,057 gam.
+ 02 cục bột màu trắng bên trong 01 gói giấy bạc đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng: 0,212 gam.
+ Chất bột màu trắng bên trong 43 gói giấy đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng: 2,469 gam.
Tại cơ quan điều tra Nguyễn MẠNH V và Vi Thanh T khai nhận:
Bản thân Nguyễn MẠNH V và Vi Thanh T nghiện ma túy và thuê ở phòng 202 nhà nghỉ T số 8 G, P. Ngọc Lâm, L, Hà Nội từ ngày 29/5/2021 đến nay. Đến Khoảng 16 giờ ngày 16/6/2021, V và T thỏa thuận cùng nhau mua ma túy ma túy về sử dụng. V góp 2.800.000đ, T góp 600.000đ, tổng là 3.400.000đ. Sau đó, V gọi điện thoại từ số 097149xxxx tới số điện thoại của Trần Thu H 091288xxxx hỏi mua 01 chỉ ma túy Heroine, H đồng ý đến nhà nghỉ T số 8 G và lên phòng 202 đưa ma túy cho V , V trả H số tiền 3.400.000đ. Sau đó, V và T chia nhỏ số ma túy ra nhiều gói nhỏ mục đích để sử dụng dần. Đến khoảng 10 giờ ngày 17/6/2021, khi V và T đang sử dụng ma túy trong phòng 202 thì bị lực lượng Công an tới yêu cầu kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra phát hiện bắt quả tang tại ngăn kéo kệ tivi có 01 quyển vở bên trên có 01 tờ giấy bạc và 02 cục bột màu trắng; trong túi quần bên phải T đang mặc có 01 túi nilon bên trong có 02 gói giấy màu trắng chứa chất bột màu trắng; tại cửa sổ phòng có 01 túi nilon bên trong chứa 43 gói giấy nhỏ đều chứa chất bột màu trắng. Tại chỗ V khai nhận số chất bột màu trắng trong các gói nhỏ đều là ma túy Heroine mua về mục đích để sử dụng dần. Sau đó lực lượng Công an lập biên bản thu giữ, niêm phong tang vật rồi đưa V và T về trụ sở để làm rõ. Ngoài ra V còn khai nhận ngày 15/6/2021 V còn mua của H 500.000đ tiền ma túy nhưng đã sử dụng hết trong ngày, việc giao dịch mua ma túy với H trong ngày 15/6/2021 đều do V giao dịch và trả tiền, T chỉ sử dụng cùng V .
Quá trình đấu tranh khai thác mở rộng từ V và T đến 15 giờ ngày 17/6/2021 tổ công tác Công an phường Ngọc Lâm kiểm tra 01 người phụ nữ có biểu hiện nghi vấn tại nhà nghỉ T. Qua kiểm tra phát hiện bên trong áo lót ngực bên trái người phụ nữ đang mặc có 04 (bốn) gói nilong màu đen bên trong là lớp giấy bạc chứa chất bột màu trắng. Tại chỗ, đối tượng khai tên là Trần Thu H và 04 gói nilon màu đen là ma túy Heroine, H khai 04 gói ma túy này H lấy từ 01 người phụ nữ tên Nguyễn Thị C, SN: 1967, chỗ ở tại: Phòng 60 tầng 3 tập thể B2 Văn Chương – P. Văn Chương – Đống Đa – Hà Nội để mang đi giao cho V với giá 6.400.000đ, nếu giao trót lọt H được trả công 400.000đ.
Tại bản kết luận giám định số: 5083 ngày 25/6/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội kết luận:
- Chất bột bên trong 04 gói giấy bạc (ngoài bọc nilong màu đen) đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng: 7,172 gam.
Tại cơ quan điều tra Trần Thu H khai nhận: Ngày 15/6/2021 H có sử dụng ma túy cùng V và T tại phòng 202 nhà nghỉ T số 8 G, P. Ngọc Lâm, L, Hà Nội, tại đây H nói với V là có một người Dì bán ma túy với giá rẻ. V nhờ H mua hộ 500.000đ ma túy, H đồng ý gọi điện cho Nguyễn Thị C theo số 092639xxxx bảo có bạn của H muốn mua ma túy với giá 500.000đ, C đồng ý và bảo H về nhà C lấy ma túy ở Văn Chương Đống Đa, Hà Nội. Sau đó H đi về đến khoảng 19 giờ 30’ cùng ngày H đến nhà nghỉ T số 8 G, P. Ngọc Lâm, L, Hà Nội giao ma túy cho V , do đây là lần đầu giao ma túy cho V nên H không được hưởng lợi gì. Ngày 16/6/2021 V gọi điện cho H hỏi mua 01 chỉ ma túy (heroine) của H , H đồng ý và gọi điện cho C hỏi giá tiền, C bảo giá 3.400.000đ, nếu giao ma túy thành công C trả công cho H 400.000đ. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày H đến nhà nghỉ T giao số ma túy trên cho V , ngày hôm đó H đã được C trả công 400.000đ. Ngày 17/6/2021 V gọi điện cho H hỏi mua “hai” H hiểu là V mua “hai chỉ ma túy”, H đồng ý và đến nhà C trao đổi được C đưa cho 04 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng và dặn H thu 6.400.000đ, nếu xong việc sẽ trả công cho H 400.000đ. Sau khi lấy được ma túy H cất 04 gói ma túy vào trong áo lót rồi điều khiển xe máy BKS: 29E1-xxxx đến nhà nghỉ T để giao ma túy cho V . Khi H đến nhà nghỉ T bị lực lượng Công an kiểm tra, quá trình kiểm tra H đã tự nguyện lấy trong áo lót ra 04 gói ma túy giao nộp cho cơ quan công an.
Cơ quan điều tra tiến hành dẫn giải H xác định chỗ ở của C như trên, tuy nhiên C không có mặt tại nhà. Ngày 19/6/2021 tiến hành khám xét nơi ở của C không phát hiện thu giữ gì liên quan đến việc mua bán ma túy. Quá trình tiến hành điều tra Nguyễn Thị C khai nhận: Trần Thu H là bạn gái của Tạ Văn Bình là cháu của C, thỉnh thoảng H có đến nhà C để chơi, cụ thể ngày 15,16,17/6/2021 H có gọi điện cho C và bảo đến nhà C để chơi, C đồng ý và H có đến nhà C chơi, nói chuyện bình thường, việc H tàng trữ ma túy để bán kiếm lời bị cơ quan công an bắt giữ cùng tang vật, C khẳng định không biết và không có liên quan gì đến việc H mua bán ma túy.
Cáo trạng số: 281/CT-VKS ngày 23 – 11 - 2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận L đã truy tố Trần Thu H về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự, truy tố Nguyễn MẠNH V , Vi Thanh T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
Các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của người làm chứng phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra thấy rằng: Hành vi của bị cáo Trần Thu H đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Hành vi của bị cáo vi phạm vào điểm b, i khoản 2 Điều 251 của BLHS 2015. Hành vi của các bị cáo Nguyễn MẠNH V , Vi Thanh T đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hành vi của các bị cáo vi phạm vào điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS 2015.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 đối với bị cáo Trần Thu H .
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249;điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 đối với bị cáo Nguyễn MẠNH V .
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 đối với bị cáo Vi Thanh T .
Về hình phạt:
- Đề nghị xử phạt bị cáo H mức án từ 8 năm 06 tháng đến 09 năm tù.
- Đề nghị xử phạt bị cáo V mức án từ 36 đến 42 tháng tù.
- Đề nghị xử phạt bị cáo T mức án từ 30 đến 36 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của BLHS 2015 và Điều 106 của BLTTHS.
- Đề nghị tịch thu, tiêu hủy 9,910 gam ma túy Heroine.
- Đề nghị thi hành trả lại bị cáo T 01 điện thoại di động Nokia màu đen, và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu xanh nhưng cho tạm giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.
- Đề nghị buộc bị cáo Trần Thu H phải truy nộp số tiền 400.000 đồng.
- Đề nghị cho tịch thu, sung quỹ Nhà nước 02 điện thoại di động Oppo màu đen đã qua sử dụng và 01 xe máy Honda Wave màu trắng đen bạc BKS:
29E1-xxxx.
Người bào chữa cho bị cáo Vi Thanh T vắng mặt tại phiên tòa nhưng có gửi bài bào chữa cho bị cáo và đề nghị: Bị cáo T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn là các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS, nhất trí với phần luận tội của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận L, đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất ,đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Nói lời sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:
- Về tố tụng:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an quận L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
- Về tội danh:
[2] Xét lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật- tài liệu, bản kết luận giám định, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dụng bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào các ngày 15,16/6/2021 tại nhà nghỉ T số 8 G, P. Ngọc Lâm, L, Hà Nội, bị cáo Trần Thu H có hành vi bán 2,738 gam ma túy loại Heroine cho Nguyễn MẠNH V để kiếm lời.
Ngày 17/6/2021 cũng tại nhà nghỉ T, bị cáo Trần Thu H có hành vi tàng trữ 7,172 gam ma túy loại Heroine, mục đích để bán cho bị cáo Nguyễn MẠNH V để kiếm lời thì bị tổ công tác Công an phường Ngọc Lâm, quận L, Hà Nội phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.
Ngày 17/6/2021 tại nhà nghỉ T số 8 G, P. Ngọc Lâm, L, Hà Nội, bị cáo Nguyễn MẠNH V , bị cáo Vi Thanh T có hành vi tàng trữ 2,738 gam ma túy loại Heroine để sử dụng thì bị bắt quả tang.
[3] Hành vi của bị cáo Trần Thu H đã cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự 2015; Hành vi của các bị cáo Nguyễn MẠNH V và Vi Thanh T đã cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận L truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo đã cố ý xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy được Bộ luật hình sự bảo vệ. Vì vậy, cần phải nghiêm trị đối với các bị cáo.
- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: [4] Về tình tiết tăng nặng TNHS:
Xét nhân thân của của bị cáo Trần Thu H chưa có tiền án, tiền sự; Nhân thân bị cáo Nguyễn MẠNH V có 01 tiền sự: Năm 2018 Cai nghiện 24 tháng. Tháng 10/2020 về địa phương theo luật định chưa hết thời hiệu. Nhân thân bị cáo Vi Thanh T có 01 tiền sự: Ngày 11/6/2019 đi cai nghiện bắt buộc tại trung tâm số 6 – Hà Nội. Ngày 26/5/2021 chấp hành xong theo luật định chưa hết thời hiệu, 01 tiền án Bản án số 66/HSST ngày 03.7.2018 Tòa án nhân dân huyện Gia lâm, Hà Nội xử phạt 10 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/2/2019. Tại thời điểm phạm tội bị cáo 17 tuổi 10 tháng 11 ngày Do đó bị cáo đương nhiên được xóa án tích theo quy định điểm b khoản 1 Điều 107 BLHS.
Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng TNHS nhưng nhân thân các bị cáo V và T có nhân thân xấu.
Trong khi Đảng và Nhà nước ta đang kiên quyết đấu tranh để loại trừ tệ nạn ma túy ra khỏi đời sống xã hội thì hành vi phạm tội của các bị cáo xét về tính chất, mức độ và nhân thân các bị cáo thấy cần phải xử phạt các bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt nhằm cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa tội phạm.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015. Bị cáo T là người dân tộc thiểu số, ở vùng kinh tế khó khăn, trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế là tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 BLHS.
- Về hình phạt bổ sung:
[6] Xét các bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có khả năng thi hành phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo là có căn cứ.
- Về xử lý vật chứng:
[7] - Cho tịch thu, tiêu hủy 9,910 gam ma túy Heroine là vật Nhà nước cấm lưu hành.
- Buộc bị cáo Trần Thu H truy nộp số tiền 400.000 đồng là số tiền bị cáo hưởng lợi bất chính từ việc thực hiện tội phạm.
- Cho thi hành trả lại bị cáo Vi Thanh T 01 điện thoại di động Nokia màu đen và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu xanh do không liên quan đến tội phạm nhưng cho tạm giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.
- Cho tịch thu, sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Oppo màu đen, 01 điện thoại di động Oppo màu xanh đen đã qua sử dụng Imei: 8640360780xxxx kèm sim số 097149xxxx thu giữ của bị cáo Nguyễn MẠNH V ; 01 điện thoại di động Oppo màu đen đã qua sử dụng Imei: 865257039804455 kèm sim số 096792xxxx và 01 xe máy Honda Wave màu trắng đen bạc BKS: 29E1-xxxx thu giữ của Trần Thu H là tang vật của vụ án do các bị cáo sử dụng vào việc thực hiện tội phạm.
Đại diện VKSND quận L đề nghị về hình phạt chính, hình phạt bổ sung, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và xử lý vật chứng là có căn cứ và phù hợp với nhận định của HĐXX.
- Về án phí:
[8] Các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
- Về quyền kháng cáo:
[9] Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Trần Thu H phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy; bị cáo Nguyễn MẠNH V và Vi Thanh T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Căn cứ điểm b, i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015:
Xử phạt: bị cáo Trần Thu H 09 (Chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17 - 06 -2021.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015:
Xử phạt: bị cáo Nguyễn MẠNH V 38 (Ba mươi tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17 - 06 -2021.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015:
Xử phạt: bị cáo Vi Thanh T 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17 - 06 -2021.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015 và khoản 1 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu, tiêu hủy 9,910 gam ma túy Heroine.
(Hiện đang lưu giữ tại Kho tang vật Công an quận L theo Phiếu nhập vật chứng ngày 05/7/2021).
- Cho thi hành trả lại bị cáo Vi Thanh T 01 điện thoại di động Nokia màu đen và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu xanh nhưng cho tạm giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.
- Cho tịch thu, sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Oppo màu đen, 01 điện thoại di động Oppo màu xanh đen đã qua sử dụng Imei: 8640360780xxxx kèm sim số 097149xxxx thu giữ của bị cáo Nguyễn MẠNH V ; 01 điện thoại di động Oppo màu đen đã qua sử dụng Imei: 865257039804455 kèm sim số 096792xxxx và 01 xe máy Honda Wave màu trắng đen bạc BKS: 29E1-xxxx thu giữ của Trần Thu H .
(Hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự quận L theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 24/11/2021) - Buộc bị cáo Trần Thu H truy nộp số tiền 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng) để sung quỹ Nhà nước.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.
4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 bộ luật Tố tụng Hình sự. Án xử công khai sơ thẩm.
Các bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 277/2021/HS-ST
Số hiệu: | 277/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về