TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, TP.HCM
BẢN ÁN 277/2021/HS-ST NGÀY 27/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Trong ngày 27 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 206/2021/TLST- HS ngày 31 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 328/2021/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 6 năm 2021 và Thông báo hoãn phiên tòa số 87/2021/HSST-TB ngày 08 tháng 7 năm 2021 đối với các bị cáo:
1/ Nguyễn Quốc V (tên khác Nguyễn V V); Giới tính: Nam; Sinh năm: 1995; Tại: Hà Tĩnh; Hộ khẩu thường trú: xã ST, huyện HS, tỉnh Hà Tĩnh; Cư trú: KpX, phường BṬ, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hoá: 7/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: V Nam; Con ông: Nguyễn Văn Đ và bà: Trần Thị M; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án: 01, ngày 26/8/2019 bị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt 06 tháng tù về tội “Buôn bán hàng cấm, theo bản án số 133/2019/HSPT, chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/5/2020, tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày: 09/12/2020 (có đơn xin vắng mặt).
2/ Võ Văn V1; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1998; Tại: Đắk Lắk; Hộ khẩu thường trú: xã CM, huyện E H’l, tỉnh Đắk Lắk; cư trú: KpX, phường BṬ, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: nhân viên phục vụ; Trình độ văn hoá: 7/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: V Nam; Con ông: Võ Văn V và bà: Cao Thị Th; Bị cáo có vợ chưa có con; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày: 09/12/2020 (có đơn xin vắng mặt).
3/ Nguyễn Thành Ng; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1994; Tại: Tây Ninh; Hộ khẩu thường trú: ấp P D, xã PC̉, thị xã TB, tỉnh TN; Cư trú: KpX, phường BṬ, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: phụ bếp; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: V Nam; Con ông: Nguyễn Thành D và bà: Lê Thị T; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày: 09/12/2020 (có đơn xin vắng mặt).
4/ Nguyễn Tiểu H; Giới tính: Nam; Sinh năm: 2000; Tại: Tây Ninh; Hộ khẩu thường trú: xã PC̉, thị xã TB, tỉnh TN; Cư trú: KpX, phường BṬ, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: phục vụ quán; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: V Nam; Con ông: Nguyễn Văn R và bà: Lê Thị Th; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày: 09/12/2020 (có đơn xin vắng mặt).
5/ Lê Hồng Q; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1996; Tại: Hà Tĩnh; Hộ khẩu thường trú: xã ST, huyện HS, tỉnh Hà Tĩnh; Cư trú: KpX, phường BṬ, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: nhân viên phục vụ; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: V Nam; Con ông: Lê Văn N và bà: Nguyễn Thị L; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày: 09/12/2020 (có đơn xin vắng mặt).
Người làm chứng: Anh Danh Nhân – sinh năm: 1999 và anh Nguyễn Bảo Long – sinh năm: 1988 (tất cả vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
[1] Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 09/12/2020, Nguyễn Quốc V, Lê Hồng Q, Nguyễn Tiểu H, Võ Văn V1 là nhân viên phục vụ của quán dê “Vĩnh Lộc” số 26, đường KHng Tử, KpX, phường BṬ, quận Thủ Đức (nay là thành phố Thủ Đức) cùng nhau ngồi nhậu tại quán. Do trước đó cả nhóm đã từng sử dụng chung ma túy nên trong lúc nhậu, Q rủ cả nhóm hùng tiền để mua ma túy đem vào nhà nghỉ Song Long tại số 6, đường Bắc Ái, khu phố 4, phường BṬ, thành phố Thủ Đức để sử dụng chung thì tất cả đồng ý. Do chưa biết số tiền mua ma túy hết bao nhiêu nên H đã ứng trước cộng với tiền thuê phòng khách sạn, sau đó chia đều cho cả nhóm thì được tất cả mọi người đồng ý. H đưa cho V 300.000 đồng đi mua ma túy, còn Q đến nhà nghỉ Song Long thuê phòng số 24 để cả nhóm đến sử dụng ma túy. Lúc này, V gọi điện thoại cho người thanh niên không rõ lại lịch hỏi mua ma túy với giá 300.000 đồng và hẹn đến giao lộ đường Võ Văn Ngân - Bác Ái, thuộc phường BṬ, thành phố Thủ Đức để giao ma túy. Khi V gặp người thanh niên trên bán 01 gói ma túy bỏ trong bao thuốc lá và 01 nỏ bằng thủy tinh rồi đưa cho V1. Sau khi mua được ma túy, V1 đi về quán dê Vĩnh Lộc đón V thì gặp Nguyễn Thanh Ng (là nhân viên cùng làm chung tại quán dê Vĩnh Lộc), V1 nói cho Ng biết cùng hùn tiền mua ma túy với H, Q, V đến nhà nghỉ Song Long để cùng nhau sử dụng ma túy chung, thì Ng đồng ý tham gia. Khi V, V1 và Ng đi bộ vào phòng 24 nhà nghỉ Song Long gặp H và Q đã thuê sẵn thì V thông báo cho tất cả mua ma túy hết 300.000 đồng, cộng với tiền thuê phòng khách sạn, số tiền trên chia đều cho cả nhóm thì được V, Q, H và Ng đồng ý. Đến 07 giờ 30 phút cùng ngày, khi V, Q, H, Ng, V1 đang sử dụng ma túy thì bị Công an phường Bình Thọ, thành phố Thủ Đức kiểm tra phát hiện tại nền nhà phòng 24 gồm 01 túi nylon màu trắng bên trong chứa tinh thể không màu; 01 ống thủy tinh bên trong chứa tinh thể không màu; 01 chai nhựa màu trắng nên đưa tất cả cùng vật chứng về Công an phường lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng. V, Q, H, Ng và V1 khai trước đó khoảng 01 tháng cùng nhau hùn tiền mua ma túy về sử dụng tại khách sạn Song Long như trên. Kết quả xét nghiệm ma túy của V, Q, H, Ng, V1 là dương tính.
Bản kết luận giám định số 2065/KLGD-H ngày 17/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:
- Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu ml cần giám định là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,1260g, loại Methamphetamine.
- Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m2 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,0857g, loại Methamphetamine.
Vật chứng vụ án:
- 01 gói niêm phong ghi vụ số 1183 có chữ ký của GĐV Trần Đình Hải, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định.
- 01 điện thoại hiệu Iphone 6 màu trắng.
- 01 chai nhựa màu trắng có nắp màu đỏ.
Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Thủ Đức, Nguyễn Quốc V, Lê Hồng Q, Nguyễn Tiểu H, Võ Văn V1 và Nguyễn Thanh Ng đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
[2] Tại bản Cáo trạng số 168/CT-VKS ngày 25/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức truy tố các bị cáo Nguyễn Quốc V, Lê Hồng Q, Nguyễn Tiểu H, Võ Văn V1 và Nguyễn Thành Ng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp tàng trữ ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine có khối lượng từ 0,1gam đến dưới 05 gam quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ Ng quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Quốc V, Lê Hồng Q, Nguyễn Tiểu H, Võ Văn V1 và Nguyễn Thành Ng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, riêng đối với bị cáo Nguyễn Quốc V phạm tội khi chưa được xóa án tích, do đó áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo, mức đề nghị xử phạt đối với:
Bị cáo Nguyễn Quốc V từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù Các bị cáo Lê Hồng Q, Nguyễn Tiểu H, Võ Văn V1, Nguyễn Thành Ng mỗi bị cáo từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù.
Vật chứng xử lý theo quy định pháp luật.
Các bị cáo có đơn đề nghị xét xử vắng mặt tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Các bị cáo Nguyễn Quốc V, Lê Hồng Q, Nguyễn Tiểu H, Võ Văn V1 và Nguyễn Thành Ng đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm c khoản 2 điều 290 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xét xử vắng mặt các bị cáo là đúng quy định pháp luật.
[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo Nguyễn Quốc V, Lê Hồng Q, Nguyễn Tiểu H, Võ Văn V1 và Nguyễn Thành Ng phù hợp với vật chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định: Vào lúc 07 giờ 30 phút ngày 09/12/2020, tại phòng 24 khách sạn Song Long, địa chỉ số 6, đường Bắc Ái, khu phố 4, phường BṬ, quận Thủ Đức (nay là thành phố Thủ Đức), Nguyễn Quốc V, Lê Hồng Q, Nguyễn Tiểu H, Võ Văn V1 và Nguyễn Thanh Ng có hành vi cùng nhau tàng trữ trái phép chất ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,2117g, loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng, thì bị bắt quả tang.
Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận các bị cáo Nguyễn Quốc V, Lê Hồng Q, Nguyễn Tiểu H, Võ Văn V1 và Nguyễn Thành Ng đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, do tính chất đặc biệt của chất ma túy có thể gây tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội. Nhà nước ta cũng như cả thế giới đều ra sức đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy, mọi hành vi trái pháp luật liên quan đến ma túy đều bị nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc nếu có vi phạm. Các bị cáo trong vụ án này đều có kết quả xét nghiệm dương tính với ma túy, để có ma túy sử dụng chung các bị cáo đều thống nhất cùng hùn tiền và thuê phòng khách sạn để sử dụng chung ma túy. Vì vậy, cần xử lý các bị cáo bằng hình phạt nghiêm phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của các bị cáo, để giáo dục, cải tạo đối với các bị cáo và nêu gương phòng ngừa chung.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Hội đồng xét xử xem xét quá trình điều tra các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Riêng các bị cáo Lê Hồng Q, Nguyễn Tiểu H, Võ Văn V1 và Nguyễn Thành Ng có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, nên giảm cho các bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra các bị cáo phải chịu.
Riêng đối với bị cáo Nguyễn Quốc V, ngày 26/8/2019 bị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt 06 tháng tù về tội “Buôn bán hàng cấm, theo bản án số 133/2019/HSPT, chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/5/2020, như vậy bị cáo Việt phạm tội thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
[4] Do hoàn cảnh của các bị cáo khó khăn, nên Hội đồng xét xử xem xét và không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
Đối với anh Danh Nhân là người trong coi khách sạn Song Long không biết, không liên quan đến hành vi tàng trữ ma túy của các bị cáo, do đó không có căn cứ xử lý hình sự.
Đối với số diện thoại 0906610298 và người đàn ông không rõ lai lịch bán ma túy cho V. Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Thủ Đức có công văn xác minh gửi Tổng công ty viễn thông Mobifone, đến nay thời hạn điều tra đã hết nhưng chưa có kết quả, do đó đề nghị Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Thủ Đức tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.
[5] Về xử lý vật chứng:
- 01 gói niêm phong ghi vụ số 2065 có chữ ký của GĐV Trần Đình Hải, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định, là vật cấm lưu hành, tịch thu tiêu hủy.
- 01 điện thoại hiệu Iphone 6 màu trắng, V sử dụng để gọi điện thoại mua ma túy do đó tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
- 01 chai nhựa màu trắng có nắp màu đỏ không có giá trị sử dụng do đó tịch thu tiêu hủy.
[6] Về án phí: các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Quốc V, Lê Hồng Q, Nguyễn Tiểu H, Võ Văn V1 và Nguyễn Thành Ng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc V 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/12/2020.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Lê Hồng Q 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/12/2020.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiểu H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/12/2020.
Xử phạt bị cáo Võ Văn V1 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/12/2020.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành Ng 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/12/2020.
- Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số 2065 có chữ ký Giám định viên Trần Đình Hải bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định và 01 chai nhựa màu trắng có nắp màu đỏ.
Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước: 01 ĐTDĐ hiệu Iphone 6 màu trắng. (Vật chứng tại Phiếu nhập kho ngày 17/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức).
- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án:
Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm yết, các bị cáo vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 277/2021/HS-ST
Số hiệu: | 277/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/07/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về