Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 272/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 272/2023/HS-ST NGÀY 13/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13/9/2023, tại Tòa án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 270/2023/TLST-HS ngày 22 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 276/2023/QĐXXST-HS ngày 31/8/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Tiến Đ - Sinh ngày: 20/4/1995, tại tỉnh Đ.

Nơi cư trú trước khi phạm tội: Thôn C, xã E, thành phố B, tỉnh Đ.

Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 8/12; nghề nghiệp: Không; con ông Vũ Xuân T - Sinh năm: 1969 và bà Nguyễn Thị L - Sinh năm: 1975; bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án: Không, tiền sự: Không.

Ngày 31/5/2023 bị bắt, tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B, hiện có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Bùi Thanh X - Sinh năm: 1996, địa chỉ: Thôn C, xã E, thành phố B, tỉnh Đ. (Vắng mặt)

* Người chứng kiến:

1. Ông Lê Thanh T1 - Sinh năm: 1979, địa chỉ: Tổ dân phố H, phường E, thành phố B, tỉnh Đ. (Vắng mặt)

2. Ông Nguyễn Quốc B - Sinh năm: 1994, địa chỉ: Tổ dân phố A, phường E, thành phố B, tỉnh Đ. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tối ngày 31/5/2023, Vũ Tiến Đ sử dụng điện thoại di động kiểu dáng iPhone 6s, gắn sim số 0943.721.xxx gọi đến số 091416xxxx của một người nam giới có tên gọi là T2 (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) hỏi mua ma túy đá (Methamphetamine) với số tiền 300.000 đồng và thỏa thuận trả tiền mua ma túy sau. T2 đồng ý và hẹn đến hẻm D Y, phường E, thành phố B, để bán. Sau đó, Đ điều khiển xe mô tô hiệu Honda Air Blade, biển số: 47C1 - xxxxx đi đến rồi gọi điện thoại cho T2 thì được hướng dẫn đi bộ vào trong hẻm D Y nhặt lấy một phong bì thư. Theo hướng dẫn, Đ tìm thấy một phong bì thư, mở ra bên trong có 01 gói nylon chứa ma túy đá, Đ bỏ vào trong túi quần bên phải phía trước đang mặc, điều khiển xe mô tô đi tìm nơi sử dụng. Khi Đ đi ra đến đầu hẻm S đường Y thì bị Công an phường E, phát hiện bắt quả tang, thu giữ tang vật. Sau đó, chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, xử lý theo thẩm quyền.

Tại bản Kết luận giám định số: 681/KL-KTHS ngày 08/6/2023 của Phòng K - Công an tỉnh Đ, kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng được niêm phong gửi giám định là Ma túy, có khối lượng 0,2175gam, loại Methamphetamine.

Tại Cáo trạng số 272/CT-VKS-HS ngày 21/8/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo Vũ Tiến Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Tiến Đ thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và đúng theo nội dung Cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát đã công bố.

Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Vũ Tiến Đ từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (H) năm tù.

- Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Đối với 0,1881 gam chất ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu được niêm phong trong phong bì số: 681/KL-KTHS ngày 08/6/2023 ghi “Mẫu vật còn lại sau giám định vụ Vũ Tiến Đ - BMT”, có các chữ ký ghi tên: Nguyễn Tấn Đ1, Nguyễn Bá H1 và đóng dấu tròn màu đỏ Phòng K - Công an tỉnh Đ, là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động kiểu dáng iPhone 6s, gắn sim số 0943.721.xxx. Quá trình điều tra xác định là tài sản của Vũ Tiến Đ sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

Đối với chiếc xe mô tô hiệu HONDA, số loại: AIR BLADE, màu sơn: Trắng B, dung tích xy lanh: 124, số khung: RLHJF6309FZ148931, số máy: JF63E1502999, biển số: 47C1 - xxxxx, do chị Nguyễn Thị L1, sinh năm: 1993, nơi cư trú: Thôn B, xã B, thị xã B, tỉnh Đ đăng ký chủ sở hữu. Ngày 12/12/2021, chị L1 bán xe mô tô này cho anh Nguyễn Văn T3, sinh năm 1988, trú tại: F G, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đ là chủ cửa hàng xe máy tên T, địa chỉ: C L, phường E, thành phố B, tỉnh Đ. Ngày 10/4/2023, anh Bùi Thanh X, sinh năm: 1996, nơi cư trú: Thôn C, xã E, thành phố B, tỉnh Đ mua lại chiếc xe mô tô này từ Cửa hàng xe máy Trung N, nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu theo quy định pháp luật. Ngày 31/5/2023, anh X cho Vũ Tiến Đ mượn làm phương tiện đi lại, không biết Đ sử dụng thực hiện hành vi phạm tội. Ngày 31/7/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả chiếc xe mô tô 47C 1-xxxxx cho anh Bùi Thanh X nhận quản lý, sử dụng.

Các vấn đề khác đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận như nội dung đã nêu tại bản Cáo trạng.

Bị cáo không tranh luận nội dung gì, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Tiến Đ đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với các tình tiết như bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án về thời gian địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định: Vào khoảng 17 giờ 45 phút ngày 31/5/2023 tại hẻm D Y, phường E, thành phố B, Công an phường E phát hiện bắt quả tang Vũ Tiến Đ có hành vi cất giấu trái phép 0,2175gam chất ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng. Do đó, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo Vũ Tiến Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là có căn cứ và đúng pháp luật. Cụ thể:

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

…… c) Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

…….” Bị cáo có đủ năng lực hành vi dân sự để nhận thức được ma túy là chất gây nghiện, làm hủy hoại sức khỏe con người, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội, dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật về hình sự tại địa phương, nhưng do ý thức coi thường pháp luật, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, xâm phạm sự thống nhất quản lý ma túy của Nhà nước. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét, cân nhắc và áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả phạm tội đã thực hiện, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

[3] Về tiền án, tiền sự: Bị cáo không có tiền án, tiền sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những nhận định trên, HĐXX xét thấy cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một khoảng thời gian mới có đủ điều kiện và thời gian cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[6] Các biện pháp tư pháp:

- Về xử lý vật chứng: Đối với 0,1881 gam chất ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu được niêm phong trong phong bì số: 681/KL-KTHS ngày 08/6/2023 ghi “Mẫu vật còn lại sau giám định vụ Vũ Tiến Đ - BMT”, có các chữ ký ghi tên: Nguyễn Tấn Đ1, Nguyễn Bá H1 và đóng dấu tròn màu đỏ Phòng K - Công an tỉnh Đ, là tang vật của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động kiểu dáng iPhone 6s, gắn sim số 0943.721.xxx. Quá trình điều tra xác định là tài sản của Vũ Tiến Đ sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

Đối với chiếc xe mô tô hiệu HONDA, số loại: AIR BLADE, màu sơn: Trắng B, dung tích xy lanh: 124, số khung: RLHJF6309FZ148931, số máy: JF63E1502999, biển số: 47C1 - xxxxx, do chị Nguyễn Thị L1, sinh năm: 1993, nơi cư trú: Thôn B, xã B, thị xã B, tỉnh Đ đăng ký chủ sở hữu. Ngày 12/12/2021, chị L1 bán xe mô tô này cho anh Nguyễn Văn T3, sinh năm 1988, trú tại: F G, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đ là chủ cửa hàng xe máy tên T, địa chỉ: C L, phường E, thành phố B, tỉnh Đ. Ngày 10/4/2023, anh Bùi Thanh X, sinh năm: 1996, nơi cư trú: Thôn C, xã E, thành phố B, tỉnh Đ mua lại chiếc xe mô tô này từ Cửa hàng xe máy Trung N, nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu theo quy định pháp luật. Ngày 31/5/2023, anh X cho Vũ Tiến Đ mượn làm phương tiện đi lại, không biết Đ sử dụng thực hiện hành vi phạm tội. Ngày 31/7/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả chiếc xe mô tô 47C 1-xxxxx cho anh Bùi Thanh X nhận quản lý, sử dụng, là phù hợp.

[7] Các vấn đề khác:

Đối với người nam giới có tên gọi là T2 có số điện thoại 091416xxxx bán ma túy cho bị cáo Vũ Tiến Đ. Quá trình xác minh chưa xác định được nhân thân, lai lịch. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã có công văn đề nghị công ty V cung cấp thông tin chủ sở hữu số thuê bao nói trên nhưng vẫn chưa có kết quả phúc đáp nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, tách hành vi của đối tượng này ra khỏi vụ án, tiếp tục xác minh, xử lý sau, là phù hợp.

Đối với anh Bùi Thanh X, là người cho bị cáo Vũ Tiến Đ mượn chiếc xe mô tô biển số: 47C 1-xxxxx nhưng anh X không biết Đ sử dụng làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, không đề cập xử lý, là phù hợp.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Vũ Tiến Đ. Công an thành phố B đã ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo, là phù hợp.

[8] Về án phí: Bị cáo Vũ Tiến Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố: Bị cáo Vũ Tiến Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Vũ Tiến Đ: 01 (Một) năm 06 (S) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, ngày 31/5/2023.

[2] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Tịch thu, tiêu hủy đối với 0,1881 gam chất ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu được niêm phong trong phong bì số: 681/KL-KTHS ngày 08/6/2023 ghi “Mẫu vật còn lại sau giám định vụ Vũ Tiến Đ - BMT”, có các chữ ký ghi tên: Nguyễn Tấn Đ1, Nguyễn Bá H1 và đóng dấu tròn màu đỏ Phòng K - Công an tỉnh Đ.

Tịch thu, sung ngân sách Nhà nước đối với 01 điện thoại di động kiểu dáng iPhone 6s, gắn sim số 0943.721.xxx.

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Vũ Tiến Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 272/2023/HS-ST

Số hiệu:272/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về