Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 27/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BA ĐỒN, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 27/2022/HS-ST NGÀY 30/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 22/2022/TLST-HS ngày 14 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2022/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. Trần Ngọc Kh; giới tính: Nam; sinh ngày 26 tháng 6 năm 1994 tại thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: thôn L, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: lao động tự do; con ông Trần Ngọc Ph, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1972; vợ, con: chưa có.

Tiền án: 01 tiền án, ngày 11/8/2020, bị Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng, về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” (chấp hành xong thời gian thử thách vào ngày 11/8/2021), chưa được xóa án tích thì tiếp tục phạm tội.

Tiền sự: 01 tiền sự, ngày 21/7/2020, bị Công an xã Quảng Sơn xử phạt vi phạm hành chính, về hành vi “Trộm cắp tài sản”, hình thức xử phạt bằng tiền, số tiền 1.500.000 đồng (chấp hành xong hình phạt ngày 22/10/2020).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình, kể từ ngày 20 tháng 10 năm 2021.

2. Trần Ngọc H; giới tính: Nam; tên gọi khác: không; sinh ngày 11 tháng 10 năm 1995 tại thị xã B, tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: thôn L, xã Qu, thị xã B, tỉnh Quảng Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 11/12; nghề nghiệp: lao động tự do; đoàn thể: không; con ông Trần Ngọc H, sinh năm 1967 và bà Mai Thị H, sinh năm 1972; vợ, con: chưa có.

Tiền án: không.

Tiền sự: 02 tiền sự, ngày 21/7/2020, bị Công an xã Quảng Sơn xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” (chấp hành xong hình phạt ngày 22/10/2020); trước đó ngày 26/12/2019 có hành vi trộm cắp tài sản, đến ngày 16/12/2020 bị Công an thị xã Ba Đồn phát hiện, xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền 1.500.000 đồng (chấp hành xong hình phạt vào ngày 23/12/2020).

Nhân thân: bị Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình áp dụng biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng với thời gian 12 tháng, về tội “Trộm cắp tài sản”, tại bản án hình sự sơ thẩm số 03/2013/HSST ngày 22/01/2013 (chấp hành xong biện pháp tư pháp ngày 18/3/2014).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình, kể từ ngày 20 tháng 10 năm 2021.

3. Phan Xuân C; giới tính: Nam; tên gọi khác: không; sinh ngày 20 tháng 10 năm 1995 tại thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: thôn L, xã Qu, thị xã B, tỉnh Quảng Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: lao động tự do; con ông Phan Văn L, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1973; vợ, con: chưa có.

Tiền án: không.

Tiền sự: 01 tiền sự, ngày 21/7/2020, bị Công an xã Quảng Sơn xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền 1.500.000 đồng, về hành vi “Trộm cắp tài sản” (chấp hành xong hình phạt ngày 22/10/2020).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình, kể từ ngày 20 tháng 10 năm 2021.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: vào khoảng 22 giờ, ngày 19/10/2021, Trần Ngọc Kh, Trần Ngọc H và Phan Xuân C ngồi chơi tại đoạn đường nội xã thuộc thôn L, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình thì cùng nhau nảy sinh ý định sử dụng ma túy nên cả ba thống nhất góp tiền đi mua ma túy về sử dụng. Do Kh và C chưa có tiền nên H sẽ bỏ tiền ra để mua ma túy trước rồi sau này Kh và C sẽ trả lại tiền cho H. Tiếp đó, Kh nói với C đợi tại ngôi nhà hoang thuộc thôn L, xã Qu để Kh và H đi mua ma túy thì C đồng ý, đưa xe mô tô BKS 34B1 - 290.72 cho Kh chở H đi mua ma túy. Khi cả hai đi đến khu vực đường thuộc thôn V, xã Qu, thị xã B thì gặp một người phụ nữ không rõ tên, địa chỉ cụ thể, Kh dừng xe còn H một mình đi bộ lại dò hỏi và mua được từ người phụ nữ đó 02 viên ma túy tổng hợp, dạng Hồng phiến với giá tiền 170.000 đồng. Sau đó, H cất giấu số ma túy vừa mua được rồi quay lại lên xe để Kh chở về ngôi nhà hoang nơi C đang đợi. Tại đây, H bỏ số ma túy vừa mua được xuống nền nhà và nói cho Kh và C biết là mua ma túy hết 170.000 đồng. Khi cả ba đang chuẩn bị sử dụng số ma túy trên thì bị lực lượng Công an thị xã Ba Đồn phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng các tang vật liên quan.

Tại bản kết luận giám định số 1194/GĐ-PC09 ngày 25 tháng 10 năm 2021, của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: 02 viên nén hình tròn dạng thuốc tân dược màu hồng, thu giữ ngày 20/10/2021 là: “Chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,197 gam (không phẩy một trăm chín mươi bảy gam). Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, S bố thứ tự: 323, Danh mục II, Nghị định số 73/2018/NĐ - CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ.”.

Vật chứng vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn đã thu giữ 01 đoạn ống nhựa màu tím, bên trong có chứa 02 viên nén hình tròn, màu hồng, dạng thuốc tân dược. Sau khi giám định đã được niêm phong bằng một phong bì thư dán kín, có số 1194/GĐ-PC09 ngày 25 tháng 10 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình, ghi “mẫu kí hiệu A”, bên trong chứa 01 phong bì thư (dùng để niêm phong mẫu gửi giám định), 01 đoạn ống nhựa màu tím; 01 mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu trắng đen, BKS 34B1 - 290.72, quá trình điều tra xác định xe mô tô trên thuộc sở hữu của Phan Xuân C.

Liên quan trong vụ án có người phụ nữ đã bán ma túy cho H tại khu vực thôn Vĩnh Phú, xã Quảng Hòa, thị xã Ba Đồn, do không xác định được lai lịch, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra tiếp tục lập hồ sơ theo dõi, khi nào có kết quả thì xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số 24/CT - VKSBĐ ngày 18 tháng 4 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn đã truy tố các bị cáo Trần Ngọc Kh, Trần Ngọc H và Phan Xuân C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Tuyên bị cáo Trần Ngọc Kh, Trần Ngọc H và Phan Xuân C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo; áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trần Ngọc Kh để xử phạt các bị cáo:

Trần Ngọc Kh từ 21 (hai mươi mốt) đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 20/10/2021 Trần Ngọc H từ 18 (mười tám) đến 21 (hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 20/10/2021 Phan Xuân C từ 15 (mười lăm) đến 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 20/10/2021 cáo.

+ Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị + Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để: tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình, số 1194/GĐ-PC09, bên ngoài ghi “mẫu ký hiệu A”, bên trong chứa 01 phong bì thư và 01 đoạn ống nhự màu tím và tịch thu sung công 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, sơn màu đen trắng, biển kiểm soát 34B1 - 29072, số khung RLCS5C640BY513953, số máy 5C64-513957, đã qua sử dụng của Phan Xuân C.

Tuyên các bị cáo phải chịu án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

- Các bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật và nhất trí với toàn bộ nội dung Cáo trạng và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên về tội danh, khung hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn đã truy tố đối với các bị cáo, không tranh luận gì.

- Trong lời nói sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo và người tham gia tố tụng không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội:

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, như nội dung Cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của cáo bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản niêm phong tài liệu, đồ vật bị tạm giữ; kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã được làm rõ tại phiên tòa, đủ cơ sở kết luận: ngày 20/10/2021, các bị cáo Trần Ngọc Kh, Trần Ngọc H và Phan Xuân C có hành vi bàn bạc, mua ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,197g, mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an thị xã Ba Đồn phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình truy tố Trần Ngọc Kh, Trần Ngọc H và Phan Xuân C theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện thấy: các bị cáo có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, hành vi của cáo bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy. Ngoài ra còn trực tiếp đe doạ nghiêm trọng đến sức khỏe và sự phát triển của bản thân, gây thiệt hại về kinh tế cho gia đình, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự và an toàn xã hội.

[4] Xét vai trò phạm tội: các bị cáo đồng phạm giản đơn, không có sự phân công, câu kết chặt chẻ; giữ vai trò cao nhất trong vụ án là bị cáo Trần Ngọc Kh, tham gia với vai trò khởi xướng, đồng thời thực hiện hành vi một cách tích cực; bị cáo Trần Ngọc H là người để tiền mua ma túy và cũng thực hiện hành vi một cách tích cực, nên phải chịu vai trò thứ hai trong vụ án; bị cáo Phan Xuân C sau khi nghe bị cáo Kh khởi xướng mua ma túy sử dụng thì đã hưởng ứng tích cực, giao xe mô tô cho Kh và H đi mua ma túy và ngồi đợi ở ngôi nhà hoang để chờ sử dụng ma túy, có vai trò thứ ba trong vụ án. Do vậy, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình hình sự tương xứng với vai trò phạm tội.

[5] Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy rằng:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo Trần Ngọc Kh bị Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng, về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, tại bản án hình sự sơ thẩm số 32/2020/HS-ST, ngày 11/8/2020 (chấp hành xong thời gian thử thách ngày 11/8/2021), chưa được xóa án tích lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, thuộc trường hợp “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhận thức được hành vi sai trái của mình, thuộc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Các bị cáo Trần Ngọc Kh, Trần Ngọc H và Phan Xuân C đều có tiền sự, ngoài ra bị cáo Trần Ngọc H có nhân thân xấu.

[6] Về hình phạt: Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo đều có tiền sự, bị cáo Kh có 01 tiền án, bị cáo H có nhân thân xấu; do vậy, cần áp dụng Điều 38 Bộ luật hình sự để xử phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo để răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung, như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên theo tài liệu có trong hồ sơ, lời khai của các bị cáo tại phiên tòa cho thấy các bị cáo lao động tự do, hiện đang bị tạm giam, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 phong bì thư của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình, số 1194/GĐ-PC09, bên ngoài ghi “mẫu ký hiệu A”, bên trong chứa 01 phong bì thư và 01 đoạn ống nhự màu tím là vật hiện không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, sơn màu đen trắng, biển kiểm soát 34B1 - 29072, số khung RLCS5C640BY513953, số máy 5C64-513957, đã qua sử dụng, thuộc quyền sở hữu của Phan Xuân C; dù C không điều khiển xe mô tô nhưng sau khi bàn bạc với Kh và H để mua ma túy về sử dụng, C đã giao xe cho Kh và H đi mua ma túy, Hội đồng xét xử xác định đây là phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[9] Những hành vi có liên quan: trong vụ án này có người phụ nữ đã bán ma túy cho H tại khu vực thôn Vĩnh Phú, xã Quảng Hòa, thị xã Ba Đồn, do không xác định được lai lịch, địa chỉ cụ thể nên chưa có căn cứ xử lý.

[10] Về án phí: buộc bị các cáo Trần Ngọc Kh, Trần Ngọc H và Phan Xuân C mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách nhà nước.

[11] Về quyền kháng cáo: các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Trần Ngọc Kh, Trần Ngọc H và Phan Xuân C; áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Trần Ngọc Kh.

Các điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

Các điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 329; khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng Hình sự;

Khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án”.

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Trần Ngọc Kh, Trần Ngọc H và Phan Xuân C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt Trần Ngọc Kh 22 (hai mươi hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ,tạm giam 20/10/2021.

Xử phạt Trần Ngọc H 19 (mười chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 20/10/2021.

Xử phạt Phan Xuân C 16 (mười sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 20/10/2021.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Trần Ngọc Kh, Trần Ngọc H và Phan Xuân C với thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (30/5/2022) để đảm bảo thi hành án, theo Quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử.

3. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung đối với tất cả các bị cáo.

4. Về xử lý vật chứng:

Xử tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình, số 1194/GĐ-PC09, bên ngoài ghi “mẫu ký hiệu A”, bên trong chứa 01 phong bì thư và 01 đoạn ống nhự màu tím.

Xử tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, sơn màu đen trắng, biển kiểm soát 34B1 - 29072, số khung RLCS5C640BY513953, số máy 5C64-513957, đã qua sử dụng.

(Các vật chứng có đặc điểm mô tả như trong Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thị xã Ba Đồn và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ba Đồn vào ngày 18/4/2022).

5. Về án phí: Xử buộc các bị cáo Trần Ngọc Kh, Trần Ngọc H và Phan Xuân C mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.

6. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 30/5/2022.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 27/2022/HS-ST

Số hiệu:27/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ba Đồn - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về