Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 27/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 27/2022/HS-ST NGÀY 24/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 243/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2022/QĐXXST-HS ngày 11/02/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Ngọc T, sinh ngày 08/12/1993. Tại: Bình Dương. Nơi ĐKHKTT: Ấp PT, xã PA, thị xã B, tỉnh Bình Dương; Nơi ở: Số x (số cũ x1), đường PDL, khu phố x2, phường T, thành phố M, tỉnh Bình Dương. Trình độ học vấn: 6/12. Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Trần Văn T1 và bà Phạm Thị Châu G; Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 28/7/2021 và tạm giam cho đến nay; Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Phạm Thị Châu G, sinh năm 1976. Địa chỉ: Số x (số cũ x1), đường PDL, khu phố x2, phường T, thành phố M, tỉnh Bình Dương; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các T liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 28/7/2021, trong lúc lực lượng Công an phường T, thành phố M, tỉnh Bình Dương đang làm công tác kiểm tra tại chốt kiểm soát dịch Covid 19 tại khu vực ngã tư V, phường phường T, thành phố M, tỉnh Bình Dương thì thấy Trần Ngọc T điều khiển xe mô tô kiểu dáng Honda Wave, màu xanh, biển số 60HB-06xx chạy trên đường và có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu T dừng xe lại để tiến hành kiểm tra thì phát hiện bên trong lưng quần, phía trước, bên phải của T có cất giấu một gói thuốc hiệu Jet bên trong đựng 01 (một) gói nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng mà T khai nhận là ma túy đá (Methamphetamine) do T mua về để sử dụng nên lực lượng Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Ngọc T về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ số vật chứng, gồm: 01 (một) gói nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng; 01 (một) xe mô tô kiểu dáng Honda Wave, màu xanh, biển số 60HB-06xx và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia TA 01032, màu xanh đen.

Quá trình xác minh và điều tra xác định: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 28/7/2021, sau khi Trần Ngọc T đi giao gas ở khu vực ngã tư C, phường TBH, thành phố M, tỉnh Bình Dương thì T nảy sinh ý định đi mua ma túy về để sử dụng. Lúc này, T điều khiển xe mô tô biển số 60HB-06xx đi đến khu vực đèn tín hiệu giao thông ở Trạm thu phí S rồi sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Nokia TA 01032, màu xanh đen có số thuê bao 0896.99832xx gọi đến số thuê bao 0337.4288xx của người nam bán ma túy tên thường gọi là G (hiện chưa xác định rõ họ tên và địa chỉ cư trú) để hỏi mua ma túy đá với số tiền 600.000 (sáu trăm nghìn) đồng. Tại đây, G đưa cho T một gói thuốc hiệu Jet bên trong đựng 01 (một) gói nylon hàn kín chứa ma túy đá rồi T trả cho G số tiền 600.000 (sáu trăm nghìn) đồng. Lúc này, T bỏ gói thuốc có chứa ma túy vào trong lưng quần phía trước, bên phải rồi điều khiển xe mô tô đi về cửa hàng gas HD, địa chỉ tại đường PDL, phường TBH, thành phố M, tỉnh Bình Dương. Khi T đi đến chốt kiểm soát dịch Covid 19 tại khu vực ngã tư V, địa chỉ tại phường phường TA, thành phố M, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng Công an phát hiện T cất giấu 01 (một) gói nylon hàn kín chứa chất ma túy đá nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ Bản kết luận giám định số 501/MT-PC09 ngày 05/8/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng chứa trong 01 (một) gói nylon hàn kín được niêm phong trong một bì thư có chữ ký của người bị bắt Trần Ngọc T, người chứng kiến Ngô Tấn V, cán bộ niêm phong Châu Thanh D và dấu đỏ của Công an phường T, thành phố M, tỉnh Bình Dương, có khối lượng: 1,1665 gam là ma túy loại Methamphetamine. Khối lượng hoàn lại sau giám định là 1,1149 gam (đã được niêm phong). Đối với số ma túy hoàn lại sau giám định này Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một để đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một quyết định tịch thu, tiêu hủy.

Đối với người đàn ông tên G có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Trần Ngọc T, quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một đã có Công văn đề nghị Ban Thanh tra – Kiểm toán Công ty Viễn thông Vinafone cung cấp thông tin về chủ số thuê bao 0337.4288xx nhưng đến nay chưa có kết quả trả lời. Đồng thời, quá trình điều tra T khai nhận không biết rõ nhân thân, lai lịch của đối tượng tên G nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một sẽ tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ và xử lý sau khi có đủ căn cứ.

Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia TA 1032, số seri: NE1GAM4832000677, màu xanh đen, sim số 0896.9983xx quá trình điều tra xác định điện thoại trên là T sản của Trần Ngọc T và T sử dụng để liên lạc mua ma túy về sử dụng nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một để đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một quyết định xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với 01 (một) xe mô tô mô tô kiểu dáng Honda Wave, màu xanh, biển số 60HB-06xx thu giữ của Trần Ngọc T, quá trình điều tra xác định: Mẹ của Trần Ngọc T là bà Phạm Thị Châu G, sinh năm 1976 mua xe mô tô trên của một người (hiện chưa xác định rõ họ tên và địa chỉ cư trú) nhưng không làm thủ tục sang tên. Trong quá trình sử dụng, bà G làm mất biển số xe nên bà G nhặt được biển số 60HB-06xx rồi gắn vào xe mô tô kiểu dáng Honda Wave, màu xanh rồi cho T mượn để sử dụng. Việc T sử dụng xe mô tô của bà G để đi mua ma túy bà G không biết. Đồng thời, đối với biển số 60HB-06xx, quá trình điều tra xác định biển số trên là của xe mô tô số loại 50, dưới 50cm3, màu đen xám do chị Phạm Khánh V, sinh năm 1998 đứng tên trên Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô và chị V đã bán xe mô tô trên cho một người (hiện chưa xác định rõ họ tên và địa chỉ cư trú). Bên cạnh đó, quá trình điều tra xác định: Xe mô tô thu giữ của T có số khung: VHTDCH0D5UM 0012xx, số máy: VTTHTJL1P52FMH-C 011xx và được đăng ký bởi xe mô tô có nhãn hiệu là SIRENA, số loại C110, biển số 61N7-54xx do ông Đoàn Văn P đứng tên trên Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô và hiện ông P không còn sinh sống ở địa phương nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một chưa làm việc được với ông P. Vào các ngày 15/10/2021 và 16/10/2021 Báo Tuổi trẻ đã đăng thông tin tìm chủ sở hữu liên quan đến xe mô tô có kiểu dáng Wave biển số 60HB-06xx, số khung: VHTDCH0D5UM 0012xx, số máy: VTTHTJL1P52FMH-C 011xx nhưng đến nay chưa có người đến nhận nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một để đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một ra quyết định xử lý theo quy định của pháp luật.

Cáo trạng số 14/CT-VKS-HS ngày 27/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo Trần Ngọc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, xử phạt bị cáo Trần Ngọc T mức hình phạt từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về biện pháp tư pháp, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong có chữ ký người bị bắt Trần Ngọc T, chữ ký cán bộ niêm phong Châu Thanh Đại, người chứng kiến Ngô Tất Việt và đóng dấu niêm phong bằng hình dấu tròn đỏ của Công an phường T, thành phố M, tỉnh Bình Dương; Theo kết luận giám định số 501/MT-PC09 ngày 05/8/2021 và biên bản đóng gói niêm phong và giao nhận đối tượng giám định ngày 28/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương thì bên trong có 01 (một) gói nylon hàn kín chứa ma túy loại Methamphetamine trọng lượng hoàn lại sau giám định: 1,1149 gam.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Nokia TA 1032, vỏ bị trầy xước nhiều, màn hình bị bể, có số seri: NE1GAM4832000677 màu xanh đen.

Trả bà Phạm Thị Châu G 01 (một) xe mô tô hai bánh đã qua sử dụng kiểu dáng Honda Wave, màu xanh, số khung VHTDCH0D5UM 012xx, số máy VTTHTJL1P52FMH-C011xx.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) biển số 60HB-06xx.

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản ghi lời khai của người làm chứng, biên bản niêm phong, kết luận giám định cùng những T liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 28/7/2021, Trần Ngọc T có hành vi mua chất ma túy là Methamphetamine (có khối lượng 1,1665 gam) nhằm mục đích sử dụng. Do đó, hành vi mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy. Hiện nay, tình hình nghiện hút chất ma túy đang diễn ra phức tạp trong mọi tầng lớp. Tệ nạn này là mối quan tâm của toàn xã hội, một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn này chưa được đẩy lùi chính là có sự tiếp tay của bị cáo. Do đó, đối với bị cáo cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Căn cứ vào nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[6] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong có chữ ký người bị bắt Trần Ngọc T, chữ ký cán bộ niêm phong Châu Thanh D, người chứng kiến Ngô Tất V và đóng dấu niêm phong bằng hình dấu tròn đỏ của Công an phường T, thành phố M, tỉnh Bình Dương; Theo kết luận giám định số 501/MT-PC09 ngày 05/8/2021 và biên bản đóng gói niêm phong và giao nhận đối tượng giám định ngày 28/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương thì bên trong có 01 (một) gói nylon hàn kín chứa ma túy loại Methamphetamine trọng lượng hoàn lại sau giám định: 1,1149 gam.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Nokia TA 1032, vỏ bị trầy xước nhiều, màn hình bị bể, có số seri: NE1GAM4832000677 màu xanh đen.

Trả bà Phạm Thị Châu G 01 (một) xe mô tô hai bánh đã qua sử dụng kiểu dáng Honda Wave, màu xanh, số khung VHTDCH0D5UM 012xx, số máy VTTHTJL1P52FMH-C011xx.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) biển số 60HB-06xx.

[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 136, 260, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2/ Về hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Trần Ngọc T 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/7/2021.

3/ Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì thư niêm phong có chữ ký người bị bắt Trần Ngọc T, chữ ký cán bộ niêm phong Châu Thanh D, người chứng kiến Ngô Tất V và đóng dấu niêm phong bằng hình dấu tròn đỏ của Công an phường T, thành phố M, tỉnh Bình Dương; Theo kết luận giám định số 501/MT-PC09 ngày 05/8/2021 và biên bản đóng gói niêm phong và giao nhận đối tượng giám định ngày 28/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương thì bên trong có 01 (một) gói nylon hàn kín chứa ma túy loại Methamphetamine trọng lượng hoàn lại sau giám định: 1,1149 gam.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Nokia TA 1032, vỏ bị trầy xước nhiều, màn hình bị bể, có số seri: NE1GAM4832000677 màu xanh đen.

- Trả bà Phạm Thị Châu G 01 (một) xe mô tô hai bánh đã qua sử dụng kiểu dáng Honda Wave, màu xanh, số khung VHTDCH0D5UM 012xx, số máy VTTHTJL1P52FMH-C011xx.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) biển số 60HB-06xx.

(Thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng số 048.22 ngày 27/12/2021 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một và Công an thành phố Thủ Dầu Một).

4/ Về án phí: Buộc bị cáo chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 27/2022/HS-ST

Số hiệu:27/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:24/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về