Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 271/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 271/2022/HS-ST NGÀY 23/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 213/2022/HSST ngày 20 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 194/2022/QĐXXST - HS ngày 07 tháng 7 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa 303/2022/QĐST-HS ngày 21/7/2022 đối với:

Bị cáo Nguyễn Thiện T, sinh năm 1987 tại K; nơi đăng ký hộ khẩu: Số 31 đường C, phường H, thành phố N, tỉnh K; Chỗ ở hiện nay: sống lang thang; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn S (chết) và bà Phạm Thị H.

- Tiền sự: Ngày 29/4/2020, bị Tòa án nhân dân thành phố N áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số 09/2020/QĐ-TA, chấp hành xong ngày 27/4/2021.

- Tiền án: Ngày 12/6/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố N tuyên phạt 08 năm tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 185/2013/HS-ST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/02/2019.

- Nhân thân:

+ Ngày 23/01/2008, bị Ủy ban nhân dân thành phố N áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh theo Quyết định số 245/QĐ-CT- UBND.

+ Ngày 25/9/2009, bị Tòa án nhân dân thành phố N tuyên phạt 03 năm 06 tháng tù giam về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 273/2009/HS-ST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/01/2013 (đã thi hành phần án phí).

- Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/4/2022; có mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Văn N; nơi cư trú: Tổ 20, phường V, thành phố N, tỉnh K; vắng mặt .

2. Ông La Văn Đ; nơi cư trú: nơi cư trú: Tổ 20, phường V, thành phố N, tỉnh K; vắng mặt .

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 25/4/2022, tại khu vực trước chùa Hưng Sơn Tự, thuộc tổ 20 Trường P, phường V, thành phố N, Tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an thành phố N phối hợp với Công an phường V, thành phố N phát hiện Nguyễn Thiện T có biểu hiện khả nghi về ma túy nên tiến hành kiểm tra giấy tờ tùy thân. Lúc này, T tự nguyện giao nộp cho Tổ công tác 06 đoạn ống hút nhựa, màu trắng, hàn kín hai đầu, bên trong chứa chất bột nén màu trắng (được niêm phong, ký hiệu A) và khai nhận đây là ma túy dạng Heroine của T, mua về để sử dụng cho bản thân.

Tổ công tác tiến hành niêm phong toàn bộ tang vật và đưa Nguyễn Thiện T về trụ sở làm việc.

Tại Bản kết luận giám định số 149/GĐ-GT/2022/KL-KTHS ngày 29 tháng 4 năm 2022 của Phòng kỹ thuật – Công an tỉnh K kết luận: chất bột nén màu trắng trong 06 đoạn ống hút nhựa của mẫu A gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 0,3249g, loại Heroine.

Quá trình điều tra, xác định: khoảng 17 giờ 30 phút ngày 25/4/2022, Nguyễn Thiện T đi bộ đến khu vực Lầu 7, phường V, thành phố N để tìm mua ma túy, sử dụng cho bản thân. Tại đây, T gặp và hỏi mua 06 “tép” heroine của một nam thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch), với giá 500.000 đồng. Sau khi có được ma túy, T đi bộ đến khu vực trước chùa Hưng Sơn Tự, thuộc tổ 20 T, phường V thì bị Tổ công tác phát hiện và bắt giữ như trên.

Tại bản Cáo trạng số 185/2022/CT-VKS-NT ngày 20 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, tỉnh K đã truy tố bị cáo Nguyễn Thiện T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên nội dung đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thiện T mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Xét thấy, việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên cũng như của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên và của các cơ quan tố tụng đã thực hiện là hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thiện T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu; biên bản mở niêm phong và giao, nhận đối tượng giám định; Kết luận giám định số 149/GĐ-GT/2022 ngày 29/4/2022 và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như qua phần xét hỏi, tranh luận công khai tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận vào lúc khoảng lúc 18 giờ 00 phút ngày 25/4/2022 tại khu vực trước chùa Hưng Sơn Tự, thuộc tổ 20 T, phường V, thành phố N, bị cáo Nguyễn Thiện T có hành vi tàng trữ trái phép 0,3249g ma túy loại Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang. Khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số 185/CT-VKSNT ngày 20 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý về chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo nhận thức rõ chất ma túy bị pháp luật cấm nhưng vẫn mua để sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo còn là nguyên nhân phát sinh một số loại tội phạm khác, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Về tiền án, bị cáo có một tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích nay lại phạm tội, nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, về nhân thân của bị cáo: Năm 2008 bị Ủy ban nhân dân thành phố N áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh; Năm 2009 bị Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Năm 2020 bị Tòa án nhân dân thành phố N áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở khai nghiện bắt buộc, bị cáo chưa hết thời gian để được coi là không có có tiền sự thì lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo, cũng như phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội. Tuy nhiên, xét thấy sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn, khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ hình phạt quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015. Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo sớm về với gia đình và trở thành người có ích cho xã hội. Về hình phạt bổ sung, Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo là người không có việc làm, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[5] Về xử lý vật chứng: Đã xử lý hết trong quá trình giám định.

[6] Kiến nghị Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiếp tục điều tra, xác minh đối tượng nam thanh niên người đã bán ma túy cho bị cáo T để xử lý theo đúng quy định.

[7] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thiện T 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 25/4/2022.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

52
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 271/2022/HS-ST

Số hiệu:271/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về