Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 268/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 268/2021/HS-ST NGÀY 04/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 11 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 262/2021/TLST- HS ngày 04/10/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 282/2021/QĐXXST-HS ngày 04/11/2021 đối với bị cáo:

Trần Ngọc L, sinh năm 1990; Đăng ký nhân khẩu thường trú và trú tại: tổ 7, phường Đ, thành phố H, tỉnh H; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Văn H (đã chết), con bà: Nguyễn Thị V, sinh năm 1958; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2021 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 30’ ngày 13/6/2021, tổ Công tác Công an phường T, Nam Từ Liêm, Hà Nội đang làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa nhà 72 đường P, phường T, Nam Từ Liêm, Hà Nội, phát hiện Trần Ngọc L điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave, BKS: 98D1- X.04 có biểu hiện nghi vấn. Yêu cầu dừng xe kiểm tra, L đã thả từ tay trái xuống đất 01 túi nilon, Tổ công tác đã yêu cầu L nhặt túi nilon lên kiểm tra phát hiện bên trong túi nilon có chứa các tinh thể màu trắng giao nộp cho Tổ công tác và khai đó là ma túy “đá”, L vừa mua về để sử dụng. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, dẫn giải L cùng vật chứng đến bàn giao Công an quận Nam Từ Liêm để điều tra làm rõ. (BL 22, 23).

*Tang vật thu giữ:

- 01 túi nilon màu trắng, kích thước khoảng (1,5 x 1,5) cm, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng nghi là ma túy “đá”;

- 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu đỏ đen, BKS: 98D1 – X.04, số khung: RLHJC526XDY137898, số máy: JC52E- 1391260;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart Star 3, màu đen, bên trong có gắn thẻ sim 1 số: 03X88871; sim 2 số: 0393XX; (BL 27).

Quá trình điều tra xác định:

Trần Ngọc L là đối tượng nghiện hút nên thường xuyên tìm mua ma túy để sử dụng. L khai: khoảng 20 giờ ngày 13/6/2021, L sử dụng số điện thoại 0393XX gọi đến số điện thoại 038X4404 của một đối tượng tên C (hiện không xác định được nhân thân, lai lịch) để hỏi mua 500.000 đồng ma túy “đá”. C bảo L chuyển tiền vào tài khoản ví điện tử MoMo của C theo số điện thoại 038X4404, rồi đến nhà C tại dãy N1 tập thể Đoàn 5, đường P, phường T, Nam Từ Liêm, Hà Nội để lấy ma túy. Khoảng 21h cùng ngày, L điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave, BKS: 98D1- X04 đến cửa hàng tiện ích Circle K tại số 172 đường L, phường T, Nam Từ Liêm, Hà Nội để chuyển tiền mua ma túy vào tài khoản ví MoMo cho C. Sau khi chuyển số tiền 500.000 đồng vào tài khoản ví MoMo của C theo số điện thoại 038X4404 xong L đi đến đầu dãy N1, tập thể Đoàn 5, đường P, phường T, Nam Từ Liêm, Hà Nội. Tại đây, L được một đối tượng nam giới ( hiện không xác định được nhân thân, lai lịch) đưa cho 01 túi nilon bên trong chứa ma túy “đá”. Sau khi mua được ma túy, L đã cầm túi ma túy trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe đi tìm địa điểm để sử dụng. Khoảng 20 giờ , khi L đang đi đến trước cửa nhà số 72 đường P, phường T, Nam Từ Liêm, Hà Nội, thì bị Tổ công tác Công an phường T, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội yêu cầu dừng xe để kiểm tra phát hiện, bắt giữ.

Tại cơ quan điều tra, Trần Ngọc L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. L khai: đã một vài lần mua ma túy của C, L đều chuyển tiền cho C vào tài khoản ví MoMo theo số điện thoại 038X4404, L chưa gặp C và đến nhà C lần nào, những lần mua ma túy trước đây thì L đều được C hướng dẫn đến đầu dãy nhà N1, tập thể Đoàn 5, phường T, Nam Từ Liêm, Hà Nội và gọi điện thì C chỉ nơi cất giấu ma túy ở đầu ngõ cho L tự lấy.

Kết luận giám định số 4950KLGĐ -PC09 ngày 20/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP Hà Nội kết luận:

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 0,393 gam (BL 33).

Đối với C là người bán ma tuý cho L có sử dụng số điện thoại 038X4404 (như L khai). Tiến hành xác minh số điện thoại 038X4404 và tài khoản ví MoMo xác định chủ sở hữu là Lê Xuân C (SN: 1993 – NKTT: số 8, dãn N1, tập thể Đoàn 5, đường P, phường T, Nam Từ Liêm, Hà Nội). Tại Cơ quan điều tra, C khai bản thân có đăng ký và sử dụng số điện thoại 038X4404 cùng với ví MoMo theo số điện thoại này. Nhưng C không thừa nhận đã bán ma túy cho L vào ngày 13/6/2012, việc L chuyển tiền vào ví MoMo cho C là tiền chơi game. Cơ quan điều tra, tiến hành cho L nhận dạng Lê Xuân C qua ảnh, kết quả L không nhận ra C là người bán ma túy cho L vào ngày 13/6/2021, bản thân L chưa gặp C bao giờ. Do đó không có căn cứ để điều tra làm rõ và xử lý trong vụ án này.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ đen, BKS: 98D1 – X.04, số khung: RLHJC526XDY137898, số máy: JC52E- 1391260 thu giữ của L khi bắt quả tang: Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên đăng ký mang tên Nguyễn Thị N ( SN:1976 – NKTT: xã L, huyện T, tỉnh B). Chị N khai: mua chiếc xe máy trên vào khoảng tháng 5/ 2015 với giá 22.000.000 đồng đăng ký xe mang tên chị N, do không có nhu cầu sử dụng nên chị N đã cho con trai là Nguyễn Đình P (SN: 1998) sử dụng làm phương tiện đi lại. Ngày 13/6/2021 anh P cho Trần Ngọc L mượn chiếc xe máy trên để đi có việc, anh Phiến không biết việc L sử dụng chiếc xe máy trên đi mua ma túy. Tra cứu xe tang vật xác định không có trong hệ thống quản lý xe vật chứng.

Viện khoa học hình sự bộ Công an xác định: số khung, số máy của chiếc xe trên là nguyên thủy. Do đó, ngày 26/8/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng số 117, trao trả chiếc xe máy trên cho anh Nguyễn Đình P, anh P nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về dân sự.

Tại bản cáo trạng số 254/CT - VKS ngày 27/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm bị cáo Trần Ngọc L bị truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Trần Ngọc L khai nhận hành vi phạm tội của mình, thành khẩn nhận tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quan điểm như cáo trạng truy tố và kết luận bị cáo Trần Ngọc L đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Sau khi đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xem xét tình tiết giảm nhẹ, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự tuyên phạt bị cáo Trần Ngọc L mức án từ 18 tháng đến 21 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị Tòa tuyên:

+ Tịch thu tiêu hủy số ma túy;

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart Star 3, màu đen, bên trong có gắn thẻ sim số 1: 03X88871; sim số 2: 0393XX có liên quan đến việc phạm tội cần tịch thu sung công quỹ.

Lời nói sau cùng bị cáo thấy ăn năn về hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm và của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai tại cơ quan điều tra cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 21 giờ 30’ ngày 13/6/2021, tại trước cửa số nhà 72 đường P, phường T, Nam Từ Liêm, Hà Nội, Trần Ngọc L đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,393 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng, thì bị Tổ công tác Công an phường T, Nam Từ Liêm, Hà Nội bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo Trần Ngọc L đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền kiểm soát các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Bị cáo nhận thức rõ việc sử dụng ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố tình cất giấu ma túy để sử dụng. Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết giảm nhẹ mà các bị cáo được áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo L thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[5] Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã được phân tích ở trên: Xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian và áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Về hình phạt bổ sung: Các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy bị cáo không có thu nhập ổn định vì vậy Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng vụ án đã bàn giao cho Chi cục thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm là: 01 (một) phong bì niêm phong bên trong chứa ma túy, có chữ ký của Trần Ngọc L và giám định viên đây là vật cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy; Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart Star 3, màu đen, bên trong có gắn thẻ sim số 1: 03X88871; sim số 2: 0393XX có liên quan đến việc phạm tội cần tịch thu sung công quỹ nhà nước theo quy định tại Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt Trần Ngọc L 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/6/2021.

Xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa ma túy, có chữ ký của Trần Ngọc L và giám định viên.

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart Star 3, màu đen, bên trong có gắn thẻ sim số 1: 03X88871; sim số 2: 0393XX.

(c vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm đang quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng số 283 ngày 27/9/2021) Bị cáo Trần Ngọc L phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 268/2021/HS-ST

Số hiệu:268/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về