Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 26/2024/HS-ST NGÀY 30/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 01 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý 428/2023/TLST-HS ngày 06 tháng 12 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 401/2023/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2023, quyết định hoãn phiên tòa số 17/2024/HSST-QĐ ngày 16 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:

Nguyễn Tiến Đ, sinh ngày 23 tháng 6 năm 1995, tại: H; hộ khẩu thường trú: Thôn 3, xã N1, thị xã N, tỉnh H; chỗ ở: 3/5A P, xã V, thành phố N, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn:

12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Tiến D, sinh năm 1958 và bà Lê Thị Tuyết D1, sinh năm 1962; Vợ: Phạm Thị Phương Th, sinh năm 1996, có 01 con sinh năm 2021.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18 tháng 8 năm 2023 đến nay; có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến: Ông Đào Văn T, sinh năm 1980, trú tại: Thôn T1, xã V1, thành phố N, tỉnh H. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 10 phút ngày 18/08/2023, tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an thành phố N phối hợp với Công an phường L, thành phố N đi tuần tra phát hiện tại khu vực trước nhà số 10 đường N1, phường L, thành phố N, tỉnh H, Nguyễn Tiến Đ có biểu hiện nghi vấn về ma túy nên yêu cầu kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra, Đ tự nguyện giao nộp cho tổ công tác 01 (một) bịch nylon màu trắng có khóa hằn miệng kích thước (06x09)cm bên trong chứa 33 (ba mươi ba) viên nén màu vàng không rõ hình dạng (niêm phong ký hiệu A) và 01 (một) bịch nylon màu trắng có khóa hằn miệng kích thước (06x09)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng (niêm phong ký hiệu B). Đ khai nhận tinh thể màu trắng là ma túy “khay” và số viên nén màu vàng là ma túy “thuốc lắc” của Đ cất giấu để sử dụng cho bản thân. Sau đó, tổ công tác thu giữ, niêm phong tang vật và mời Đ về trụ sở làm việc.

Tại Cơ quan Công an, Nguyễn Tiến Đ khai nhận số tang vật trên là ma túy “thuốc lắc” và ma túy “khay” của Đ mua của đối tượng tên “Ku Phát” tại thành phố Hồ Chí Minh với giá 10.000.000 đồng về để sử dụng cho bản thân.

Tại Bản Kết luận giám định số 401/2023/KL-KTHS ngày 23/8/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh H kết luận:

- Mẫu ký hiệu A gửi giám định là ma túy, loại MDMA và Methamphetamine, có tổng khối lượng 10,9625g;

- Mẫu ký hiệu B gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, có khối lượng 8,6336g.

Tại bản Cáo trạng số 01/CT-VKSNT ngày 05 tháng 12 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy tố bị cáo Nguyễn Tiến Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến Đ từ 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng đến 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy đối với 02 phong bì mẫu vật còn lại sau giám định ký hiệu A, B có khối lượng lần lượt là 10,5385g và 8,1793g, được niêm phong có chữ ký của giám định viên, điều tra viên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu xám, sử dụng thuê bao số 0394.993.xxx của Nguyễn Tiến Đ.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Tiến Đ khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, người chứng kiến vắng mặt. Xét thấy sự vắng mặt của người này không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tiến Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến cùng các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 12 giờ 10 phút ngày 18/08/2023, tại khu vực trước nhà số 10 đường N1, phường L, thành phố N, tỉnh H, Nguyễn Tiến Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép 10,9625g ma túy loại MDMA và Methamphetamine;

8,6336g ma túy loại Ketamine nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội ở địa phương và là nguyên nhân làm gia tăng tội phạm cũng như các tệ nạn xã hội. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ ma túy là chất cấm nhưng vẫn tàng trữ trái phép để sử dụng. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bản thân chưa có tiền án tiền sự. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo.

[5] Về vật chứng: Đối với mẫu ký hiệu A còn lại sau giám định có khối lượng 10,5385g và mẫu ký hiệu B còn lại sau giám định có khối lượng 8,1793g: Là ma túy còn lại sau giám định nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu xám, sử dụng thuê bao số 0394.993.xxx của Nguyễn Tiến Đ là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[6] Đối với đối tượng “Ku Phát” đã bán ma túy cho Nguyễn Tiến Đ hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch, kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N đang tiếp tục xác minh làm rõ, khi có căn cứ thì xem xét xử lý sau.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến Đ 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18 tháng 8 năm 2023.

2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy đối với 02 phong bì mẫu vật còn lại sau giám định ký hiệu A, B có khối lượng lần lượt là 10,5385g và 8,1793g, được niêm phong có chữ ký của giám định viên, điều tra viên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu xám, sử dụng thuê bao số 0394.993.xxx Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 20 tháng 12 năm 2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Bị cáo Nguyễn Tiến Đ phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2024/HS-ST

Số hiệu:26/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về