Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRIỆU PHONG, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 26/2023/HS-ST NGÀY 27/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2023, tại hội trường Tòa án nhân dân huyện T, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 21/2023/HSST ngày 31 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2023, đối với bị cáo: TRẦN TRƯƠNG Đ, sinh năm 1994, tại Quảng Trị; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã C, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Chỗ ở hiện nay: Tiểu khu 6, thị trấn A, huyện T, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Tiến T, sinh năm 1950 (đã chết); con bà Trương Thị H, sinh năm 1965, trú tại: Thôn Đ, xã C, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Tr; vợ Lê Thị Kiều D, sinh năm 1996, trú tại: Tiểu khu 6, thị trấn A, huyện T, tỉnh Quảng Trị. Bị cáo có 03 con, lớn nhất sinh năm 2014 và nhỏ nhất sinh năm 2021.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/6/2023 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ CA huyện T, tỉnh Quảng Trị - Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị Kiều D, sinh năm 1996 (vợ của bị cáo Định); nơi cư trú: Tiểu khu 6, thị trấn A, huyện T, tỉnh Quảng Trị - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 05/6/2023, Tổ tuần tra Công an huyện T phát hiện Trần Trương Đ, sinh năm 1994, hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã C, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị; chổ ở hiện nay: Tiểu khu 6, thị trấn A, huyện T, tỉnh Quảng Trị có biểu hiện nghi vấn sử dụng trái phép chất ma túy, nên đã tiến hành kiểm tra, phát hiện, trong máy giặt ở nhà vệ sinh của Đ cất giấu một đoạn ống hút bằng nhựa chứa 06 viên ma túy tổng hợp dạng hồng phiến nên Tổ công tác đã tiến hành mời người chứng kiến và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Trương Đ, cùng toàn bộ tang vật.

Qua quá trình điều tra, truy tố, Trần Trương Đ khai nhận: Vì buồn chán việc gia đình nên Định nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng. Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 05/6/2023, Định điều khiển xe môtô nhãn hiệu KYMCO, màu đỏ đen BKS 75B1-xxxxx, đến khu vực chợ Phường 5, thành phố Đông Hà thì gặp một thanh niên (không rõ lai lịch, địa chỉ), Đ hỏi mua ma túy thì thanh niên này bảo có bán, Đ mua 07 viên ma túy với giá 170.000 đồng (số ma túy được đựng trong một đoạn ống nhựa màu trắng). Nhận ma túy xong, Đ bỏ ma túy trong túi quần rồi điều khiển xe môtô về chỗ ở của mình tại Tiểu khu 6, thị Trấn A, huyện T, tỉnh Quảng Trị. Khi về đến nơi, Đ để xe ở sân, sau đó mang ma túy vào nhà vệ sinh, chuẩn bị dụng cụ và sử dụng một mình, Đ sử dụng hết 01 viên. Lúc này lực lượng Công an tiến hành kiểm tra nên Định dấu đoạn ống nhựa chứa 06 viên ma túy còn lại vào trong máy giặt ở nhà vệ sinh.

Tại bản kết luận định giám định số 551/KL-KTHS ngày 08/6/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: 06 viên nén hình trụ tròn, màu hồng được niêm phong trong phong bì ký hiệu M1 gửi đến giám định có khối lượng 0,5930g, là ma túy loại Methamphetamine.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT: 323 Nghị định 57/2022/NĐ-CP, ngày 25/8/2022 quy định về các danh Mục chất ma túy và tiền chất.

Cáo trạng số 23/CT-VKS-HS ngày 31/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Quảng Trị truy tố Trần Trương Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Trương Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt: Trần Trương Đ từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 05/6/2023.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 0,5555 gam ma túy loại Methamphetamine được niêm phong trong phong bì có ký hiệu 1905461 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị và toàn bộ bao gói hoàn trả sau giám định; một chai nhựa trong suốt, một máy bật lửa màu đỏ.

- Trả lại cho bà Lê Thị Kiều D một xe mô tô nhãn hiệu KYMCO, biển kiểm soát 75B1-xxxxx, số khung RRM9CJ1RMC002061, số máy RRMVA 25002061.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Bị cáo Trần Trương Định phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 05/6/2023, Tổ tuần tra Công an huyện T phát hiện Trần Trương Đ, sinh năm 1994, hộ khẩu thường trú taị thôn Đ, xã C, huyện Cam Lộ và chổ ở hiện nay tại tiểu khu 6, thị trấn A, huyện T có hành vi cất dấu 6 viên nén hình trụ tròn, màu hồng nên đã lập biên bản phạm tội quả tang. Kết quả giám định 06 viên nén hình trụ tròn, màu hồng là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,5930g. Như vậy, bị cáo Trần Trương Đ có hành vi tàng trữ 0,5930 gam ma túy loại Methamphetamine mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy … c)…Methanphetamin…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam.

Xét tính chất vụ án, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và toàn dân bằng nhiều biện pháp tích cực phòng chống ma túy, nhưng vẫn không có xu hướng giảm mà phương thức phạm tội và thủ đoạn tinh vi hơn; chứng tỏ sự liều lĩnh, coi thường pháp luật của người phạm tội. Hành vi của bị cáo Trần Trương Đ là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách phòng ngừa, ngăn chặn và kiểm soát tệ nạn ma túy của Nhà nước. Bị cáo Trần Trương Định là người đã trưởng thành, nhận thức được hậu quả do mình gây ra nhưng đã bất chấp quy định của pháp luật, bất chấp sự phẫn nộ của dư luận xã hội để thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo đã làm mất trật tự trị an trên địa bàn, gây bất bình, tâm lý hoang mang lo lắng của người dân trong đời sống xã hội nên cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm mới đảm bảo tính trừng trị, giáo dục đối với các bị đồng thời răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi xem xét quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. [3] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 0,5555 gam ma túy loại Methamphetamine và toàn bộ bao gói hoàn trả sau giám định được niêm phong và ký hiệu PS3 1905461 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị là vật chứng thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành; một chai nhựa trong suốt, một máy bật lửa màu đỏ mà bị cáo dùng để sử dụng ma túy không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với xe mô tô nhãn hiệu KYMCO, biển kiểm soát 75B1-xxxxx, số khung RRM9CJ1RMC002061, số máy RRMVA 25002061 thuộc quyền sở hữu của chị Lê Thị Kiều D, bị cáo sử dụng để đi mua ma túy nhưng chị D không biết nên cần trả lại cho chị Lê Thị Kiều D.

[4] Thời hạn tạm giam của bị cáo còn lại dưới 45 ngày nên cần tiếp tục ra quyết định tạm giam đối với bị cáo Trần Trương Đ để để đảm bảo thi hành án.

[5] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Trần Trương Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt: TRẦN TRƯƠNG Đ: 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 05/6/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 0,5555 gam ma túy loại Methamphetamine và toàn bộ bao gói hoàn trả sau giám định được niêm phong và ký hiệu PS3 1905461 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị; một chai nhựa trong suốt, một máy bật lửa màu đỏ.

- Trả lại cho chị Lê Thị Kiều D xe mô tô nhãn hiệu KYMCO, biển kiểm soát 75B1-xxxxx, số khung RRM9CJ1RMCA002061, số máy RRMVA 25002061.

(Vật chứng nói trên hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Quảng Trị; đặc điểm của vật chứng được thể hiện theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/9/2023 giữa Công an huyện T, tỉnh Quảng Trị và Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Quảng Trị ).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Bị cáo Trần Trương Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo phần liên quan trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2023/HS-ST

Số hiệu:26/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Triệu Phong - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về