Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NÚI THÀNH, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 26/2023/HS-ST NGÀY 24/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 5 năm 2023, Tòa án nhân dân huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam, xét xử sơ thẩm công khai bằng hình thức trực tuyến tại điểm cầu trung tâm Tòa án nhân dân huyện Núi Thành và điểm cầu thành phần Nhà tạm giữ, lưu giam Công an huyện Núi Thành vụ án hình sự thụ lý số: 24/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Minh T (tên gọi khác: Đỏ), sinh ngày 02 tháng 10 năm 1990; nơi sinh: thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Khối phố 5, phường AX, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Quốc tịch: Việt Nam;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Phụ xe; Trình độ văn hóa: 08/12; con ông Nguyễn Sơn L, sinh năm 1969 và bà Lê Thị Đ, sinh năm 1971; Bị cáo có vợ Lê Thị Thúy H và 02 con; con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2014.

Tiền án: Ngày 08/12/2020 bị Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 18/10/2021.

Tiền sự: Không; Nhân thân:

Ngày 16/01/2009 bị Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 06 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; Ngày 19/01/2009 bị Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam xử phạt 30 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Chấp hành xong ngày 31/5/2011 Ngày 17/3/2020 bị UBND phường An Xuân, thành phố Tam Kỳ áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn trong thời gian 03 tháng từ ngày 17/3/2020 đến ngày 17/6/2020 về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/01/2023 đến nay. Có mặt tại điểm cầu thành phần.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Quốc Th, sinh năm 1995. Nơi cư trú: thôn B, xã TX, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

1. Ông Nguyễn Văn D – Chiến sĩ nhà tạm giữ, lưu giam Công an huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam

2. Ông Nguyễn Quốc Kh – Chiến sĩ nhà tạm giữ, lưu giam Công an huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào cuối tháng 12/2022 Nguyễn Minh T nhắn tin qua điện thoại hỏi mua của một người có tên Thành (chưa rõ nhân thân, lai lịch) ở Thành Phố Hồ Chí Minh 1.800.000 đồng ma túy đá về để sử dụng thì được Thành đồng ý. Sau khi thống nhất việc mua bán ma túy thì T nộp số tiền 1.800.000 đồng vào tài khoản Ngân hàng cho Thành. Vào lúc 17 giờ 30 phút, ngày 05/01/2023, Thành nhắn tin qua điện thoại cho T nói Toàn đến khu vực nhà bỏ hoang tại phường Hòa Thuận, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam để lấy ma túy. Đến 18 giờ, cùng ngày T đi đến vị trí để ma túy theo sự hướng dẫn của Thành và lấy 01 hộp bao thuốc lá hiệu con ngựa bên trong có 04 gói nilông chứa chất tinh thể màu trắng; 01 gói nilông có 05 viên nén màu xanh và 01 gói ni lông chứa chất bột màu trắng.

Sau khi lấy ma túy, T bỏ 04 gói ni lông chứa chất tinh thể màu trắng vào vỏ bao thuốc lá hiệu Prince rồi bỏ vào túi quần Jean bên trái; 01 gói nilông có 05 viên nén màu xanh và 01 gói ni lông chứa chất bột màu trắng T bỏ vào vỏ bao thuốc lá hiệu Sai Gon cho vào túi quần Jean bên phải rồi đi về. Đến 19 giờ 30 cùng ngày, T gọi điện thoại nhờ Nguyễn Quốc Th chở T tới xã Tam Hải, huyện Núi Thành để thăm một người bạn thì Th đồng ý. Th điều khiển xe mô tô BKS 92N1-59692, hiệu Exciter màu xanh trắng để chở T. T và Th đi đến khu vực bến đò Tam Quang thuộc thôn An Hải Đông, xã Tam Quang, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam thì bị tổ công tác bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Nam kiểm tra bắt quả tang cùng toàn bộ vật chứng có liên quan.

Tại bản kết luận số 04/KL-KTHS(MT) ngày 09/01/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam kết luận: Các mẫu chất rắn dạng tinh thể màu trắng gửi giám định (Mẫu ký hiệu A1 đến A4) là ma túy, loại Methamphetamine. Mẫu ký hiệu A1 có khối lượng 0,582g; mẫu ký hiệu A2 có khối lượng 0,066g; mẫu ký hiệu A3 có khối lượng 0,096g; mẫu ký hiệu A4 có khối lượng 0,169g. Mẫu chất rắn dạng bột màu trắng gửi giám định (mẫu ký hiệu A5) là ma túy loại Ketamine, khối lượng 0,248g. Không tìm thấy chất ma túy thường gặp trong 05 viên nén màu xanh gửi giám định (mẫu ký hiệu A6) có khối lượng 2,472g.

Tại bản Cáo trạng số: 36/CT-VKSNT ngày 12 tháng 4 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo theo như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Núi Thành căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đề nghị xử lý như Cáo trạng đã nêu.

- Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Minh T thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình. Bị cáo thống nhất với nội dung cáo trạng, rất ăn năn hối lỗi về hành vi phạm tội; đồng thời mong Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Nguyễn Quốc Th vắng mặt. Hội đồng xét xử nhận định rằng trong quá trình điều tra đã được cơ quan điều tra lấy lời khai làm rõ nội dung liên quan đến vụ án và sự vắng mặt của Nguyễn Quốc Th không gây trở ngại cho việc xét xử. Căn cứ Điều 292 và Điều 299 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt người liên quan Nguyễn Quốc Th.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Núi Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Núi Thành và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đều đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Trong quá trình điều tra và truy tố, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Minh T đã khai nhận: Bản thân bị cáo có nhu cầu thường xuyên sử dụng ma túy nên đã liên lạc với đối tượng có tên là Thành để mua ma túy về sử dụng. Vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 05/01/2023 sau khi mua được ma túy của người có tên Thành, bị cáo bỏ vào các vỏ bao thuốc lá rồi cho vào các túi quần mình đang mặc. Đồng thời điện thoại nhờ Nguyễn Quốc Th lấy xe mô tô chở đến xã Tam Hải, huyện Núi Thành thăm bạn. Đến 20 giờ 30 phút cùng ngày, tại bến đò Tam Quang thuộc thôn An Hải Đông, xã Tam Quang, huyện Núi Thành thì bị cáo bị tổ công tác của Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Nam phát hiện và bắt quả tang hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

[4] Đối chiếu lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có cơ sở xác định: Vào lúc 20 giờ 30 phút, ngày 05/01/2023, tại bến đò Tam Quang thuộc thôn An Hải Đông, xã Tam Quang, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam bị cáo Nguyễn Minh T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,913g ma túy loại Methamphetamin, 0,248g ma túy loại Katemine nhằm mục đích sử dụng. Căn cứ khoản 2 Điều 5 Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích của chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 xác định tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng của các chất ma túy mà bị cáo tàng trữ là 19,5%. Do đó, có căn cứ để khẳng định bị cáo Nguyễn Minh T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, cáo trạng số 36/CT - VKSNT ngày 12/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Núi Thành đã truy tố bị cáo là có cơ sở, đúng pháp luật.

[5] Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử nhận định: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bị cáo có đủ nhận thức để biết được tác hại của ma túy và những quy định cấm đoán của pháp luật đối với mọi hành vi phạm tội về ma túy. Song, để thỏa mãn nhu cầu ích kỷ của bản thân, bị cáo đã bất chấp pháp luật để tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm sử dụng thỏa mãn cho nhu cầu nghiện hút của bản thân. Do vậy, cần phải xử lý bị cáo nghiêm theo quy định của pháp luật Hình sự để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[6] Xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thì thấy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ sự ăn năn hối cải; bản thân bị cáo là lao động chính để nuôi các con nhỏ; có ông nội tham gia cách mạng và được tăng thưởng huân chương kháng chiến nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng nhận định rằng: Ngày 08/12/2020 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt vào ngày 18/10/2021 tính đến ngày phạm tội lần này là chưa được xóa án tích theo quy định tại Điều 70 Bộ luật hình sự. Vì vậy, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, xét về nhân thân thì bị cáo đã nhiều lần bị kết án về hành vi vi phạm pháp luật và áp dụng biện pháp hành chính. Do đó, Hội đồng xét xử nhận định rằng cần phải áp dụng mức án nghiêm đối với bị cáo mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[6] Về xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra đã thu giữ các vật chứng liên quan đến vụ án bao gồm:

+ 01 gói nilong không màu có khóa kéo, kích thước (5,8x4,1)cm bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng nghi là ma túy đá (mẫu A1).

+ 01 gói nilong không màu được hàn kín 04 cạnh, kích thước (2,2x1,3)cm bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng nghi là ma túy đá (mẫu A2).

+ 01 gói nilong không màu được hàn kín 03 cạnh, kích thước (2,3x1,0)cm bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng nghi là ma túy đá (mẫu A3).

+ 01 gói nilong không màu được hàn kín 03 cạnh, kích thước (2,1x1,4)cm bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng nghi là ma túy đá (mẫu A4).

+ 01 gói nilong không màu mép trên có viền màu xanh, có khóa kéo, kích thước (2,5x2,4)cm bên trong có chứa bột màu trắng, nghi là ma túy đá (mẫu A5).

+ 01 gói nilong không màu, có khóa kéo, kích thước (3x3,6)cm bên trong có 05 viên nén màu xanh (nghi là ma túy tổng hợp) (mẫu A6).

+ 01 xe mô tô hiệu Exciter, màu xanh trắng, biển kiểm soát 92N1-59692.

+ 01 vỏ bao thuốc Prince.

+ 01 vỏ bao thuốc lá Sai Gon.

Sau khi điều tra làm rõ cơ quan công an đã trả lại 01 xe mô tô hiệu Exciter, màu xanh trắng, biển kiểm soát 92N1-59692 cho chủ sở hữu là có căn cứ. Đối với 01 vỏ bảo thuốc Prince; 01 vỏ bao thuốc Sai Gon; 01 phong bì niêm phong số 04/PC09 bên ngoài có dấu đỏ của Phòng PC09 Công an tỉnh Quảng Nam, chữ ký của Lê Hoàng Vũ, Lê Cao Trí, Nguyễn Thành Trung, bên trong có 0,397g mẫu ký hiệu A1; 0,086g mẫu ký hiệu A4; 0,121g mẫu ký hiệu A5; 1,916g mẫu ký hiệu A6 còn lại sau giám định và toàn bộ bao gói. Đây là những vật chứng liên quan trực tiếp đến vụ án nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy khi án có hiệu lực pháp luật.

[7] Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

[8] Những vấn đề có liên quan: Đối với người có tên Thành quá trình điều tra chưa có đầy đủ căn cứ để xác định lai lịch của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Núi Thành tách ra tiếp tục xác minh và xử lý sau là có căn cứ, đúng quy định. Đối với Nguyễn Quốc Th dùng xe chở T nhưng không biết T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên không xử lý là đúng pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Minh T 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ là ngày 06 tháng 01 năm 2023.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015. Tuyên tịch thu, tiêu hủy khi án có hiệu lực pháp luật: 01 vỏ bảo thuốc Prince; 01 vỏ bao thuốc Sai Gon; 01 phong bì niêm phong số 04/PC09 bên ngoài có dấu đỏ của Phòng PC09 Công an tỉnh Quảng Nam, chữ ký của Lê Hoàng Vũ, Lê Cao Trí, Nguyễn Thành Trung, bên trong có 0,397g mẫu ký hiệu A1; 0,086g mẫu ký hiệu A4; 0,121g mẫu ký hiệu A5; 1,916g mẫu ký hiệu A6 và toàn bộ bao gói các mẫu vật sau giám định (Các vật chứng hiện đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Núi Thành theo biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 25/4/2023).

Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Minh T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Minh T có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (24/5/2023).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

52
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2023/HS-ST

Số hiệu:26/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Núi Thành - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về