Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 26/2022/HS-ST NGÀY 21/11/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 29/2022/TLST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 29/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:

Vì Văn L, sinh năm 1987 tại huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tiểu khu X, xã C, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 4/12; dân tộc: Thái; giơi tinh: Nam; tôn giáo: Không; quôc tich: Viêt Nam; con ông Vì Văn T và bà Vì Thị N; vợ Hà Thị L, có 01 con; tiền án: tiền sự: Không.

Về nhân thân: Ngày 19/4/2016 Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La áp dụng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian 24 tháng, chấp hành xong ngày 19/4/2018 (Đã được xóa tiền sự).

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/9/2022 đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 01/9/2022, Vì Văn L mang theo số tiền 400.000 đồng đi bộ từ nhà đến khu vực biên giới Việt Nam - Lào mục đích tìm mua ma túy sử dụng, đến gần khu vực biên giới L gặp và hỏi mua được của một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng Heroine và 01 túi nilon màu xanh đỏ đựng 20 viên nén màu hồng với giá 400.000 đồng, có được ma túy Vì Văn L mang về nhà sử dụng hết 10 viên hồng phiến và một ít Heroine. Đến sáng ngày 03/9/2022 L mang theo 10 viên hồng phiến và số Heroine còn lại mang đi làm nương để sử dụng, khi L đến khu vực tiểu khu 1/5 xã Chiềng Sơn, huyện Mộc Châu thì gặp tổ công tác Công an xã Chiềng Sơn kiểm tra phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng gồm: 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng cục bột màu trắng nghi là Heroine và 01 túi nilon màu xanh đựng 10 viên nén màu hồng, nghi là Methamphetamine.

Ngày 03/9/2022, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu tiến hành xác định khối lượng cục chất bột màu trắng và 10 viên nén màu hồng nghi là ma túy thu giữ của Vì Văn L như sau: Số cục chất bột màu trắng có khối lượng 1,03 gam, lấy toàn bộ làm mẫu trưng cầu giám định, mẫu có ký hiệu L1; 10 viên nén màu hồng có khối lượng 0,98 gam, lấy 05 viên có khối lượng 0,48 gam làm mẫu trưng cầu giám định, mẫu có ký hiệu L2.

Tại Kết luận giám định số 1925/KL-KTHS ngày 06/9/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu L1 là ma tuý; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 1,03 gam; mẫu gửi giám định ký hiệu L2 là ma tuý; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,48 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 1,03 gam, loại Heroine và 0,98 gam, loại Methamphetamine.

Cáo trạng số 183/CT-VKS ngày 07/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố Vì Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vì Văn L tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và áp dụng các căn cứ pháp luật như sau:

- Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Vì Văn L từ 36 tháng đến 42 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì còn nguyên niêm phong bên trong đựng phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở, chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu L1 có khối lượng 0,55 gam; 01 phong bì còn nguyên niêm phong ghi vật chứng còn lại vụ án Vì Văn L, có các chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong; 01 phong bì còn nguyên niêm phong bên trong đựng Test thử ma túy của Vì Văn L.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm xử lý các vấn đề của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát. Bị cáo có lời nói sau cùng xin được giảm nhẹ mức hình phạt và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

1 Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Công an xã Chiềng Sơn, Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

2 Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Vì Văn L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, số ma túy bị thu giữ là Heroine và Methamphetamine, có tổng khối lượng 2,01 gam, nguồn gốc do bị cáo mua của người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết, để sử dụng cho bản thân. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi bị cáo đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do tổ công tác Công an xã Chiềng Sơn lập hồi 09 giờ 30 phút, ngày 03/9/2022; biên bản thu giữ vật chứng, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định, bản kết luận giám định số 1925 ngày 06/9/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận là chất ma túy, loại Heroine và Methamphetamine. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ của cơ quan điều tra đã thu thập được trong hồ sơ.

3 Khung hình phạt áp dụng: Bị cáo tàng trữ khối lượng 1,03 gam Heroine và 0,98 gam Methamphetamine, căn cứ Điều 4, Chương II Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng ma túy thì tổng khối lượng các chất ma túy thu giữ của Vì Văn L là 2,01 gam, do đó Vì Văn L đã vi phạm điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Ngày 19/4/2016 Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La áp dụng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian 24 tháng, chấp hành xong ngày 19/4/2018 (Đã được xóa tiền sự), bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy. Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện, có ích cho xã hội, mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

4 Vê hinh phat bô sung : Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình điều tra và xét hỏi công khai tại phiên tòa thấy rằng bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo là phù hợp.

5 Về vật chứng:

Đối với: 01 phong bì còn nguyên niêm phong bên trong đựng 01 phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở, chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu L1 có khối lượng 0,55 gam; 01 phong bì còn nguyên niêm phong, bên trong gồm các cữ ký của các thành phần niêm phong; 01 phong bì còn nguyên niêm phong bên trong đựng Test thử ma túy của Vì Văn L. Xét là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành cùng vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

6 Về các vấn đề khác:

Đối với người phụ nữ dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo như bị cáo đã khai, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ, do đó không có căn cứ điều tra làm rõ, vì vậy buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ số ma túy bị thu giữ.

7 Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[8] Thơi han tam giam của bi cao còn dưới 45 ngày do đó Hội đồng xét xử ra Quyết định tạm giam 45 ngày sau phiên tòa để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Vì Văn L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Vì Văn L 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/9/2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì còn nguyên niêm phong bên trong đựng 01 phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở, chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu L1 có khối lượng 0,55 gam; 01 phong bì còn nguyên niêm phong, bên trong gồm các cữ ký của các thành phần niêm phong; 01 phong bì còn nguyên niêm phong bên trong đựng Test thử ma túy của Vì Văn L.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Vì Văn L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

68
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2022/HS-ST

Số hiệu:26/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:21/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về