TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÌN HỒ, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 26/2022/HS-ST NGÀY 21/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 21 tháng 01 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 30/2021/TLST-HS ngày 10 tháng 12 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo: Tẩn U M; sinh năm: 1970, nơi sinh: huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu; nơi cư trú: bản Phăng Sô L, xã Phăng Sô L, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: Dao; giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Tẩn Phủ K (tên gọi khác: Tẩn Phù K) và bà Tẩn Oàng M1 (tên gọi khác: Tẩn Vàng M1); có chồng là Tẩn Lềnh S (tên gọi khác: Tẩn Lềnh S) và 06 con (con lớn nhất sinh năm 1986, con nhỏ nhất sinh năm 2005); tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 66/2017/HSST ngày 16 tháng 11 năm 2017, bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu xử phạt 02 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 09 tháng 3 năm 2019 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, đến nay đã được xóa án tích; bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 10 tháng 9 năm 2021 đến ngày 19 tháng 9 năm 2021 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Phăng Sô L, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu; bị cáo được tại ngoại; có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị N, là trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lai Châu; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 17 giờ ngày 09 tháng 9 năm 2021, trên đường đi làm nương về đến đầu bản Phăng Sô L, xã Phăng Sô L, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu, bị cáo Tẩn U M gặp một người đàn ông không rõ lai lịch và hỏi mua của người đàn ông này 01 gói Heroine (bên ngoài được gói bằng nilon màu hồng) với giá 400.000 đồng. Sau khi mua được Heroine, M cất giấu vào túi quần đang mặc rồi đi về nhà, còn người đàn ông đi đâu M không biết. Tối ngày 09 tháng 9 năm 2021, tại nhà ở của mình, M lấy gói Heroine ra chia thành 30 gói nhỏ, đều gói ngoài bằng nilon màu vàng, cho vào một chiếc tất có nhiều màu, cất giấu trong túi quần đang mặc, mục đích là để sử dụng dần. Vào hồi 07 giờ 30 phút ngày 10 tháng 9 năm 2021, Tổ công tác Công an huyện Sìn Hồ làm nhiệm vụ tại bản Phăng Sô L, xã Phăng Sô L thấy tại nhà Tẩn U M có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy, nên tiến hành kiểm tra, qua kiểm tra đã phát hiện, bắt quả tang Tẩn U M về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ toàn bộ 30 gói Heroine.
Tại Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng và trích mẫu giám định hồi 16 giờ 00 phút ngày 10 tháng 9 năm 2021 và bản Kết luận giám định tư pháp số: 71, ngày 10 tháng 9 năm 2021 của người giám định tư pháp theo vụ việc thuộc Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu xác định: 30 gói chất bột màu trắng thu giữ của Tẩn U M (sau khi loại bỏ bao bì bên ngoài) có tổng khối lượng là 1,38 gam; trích lấy 0,14 gam chất bột màu trắng làm mẫu vật gửi đi giám định chất ma túy; số chất bột màu trắng còn lại có khối lượng là 1,24 gam.
Tại Bản kết luận giám định số: 749/GĐ-KTHS ngày 14 tháng 9 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 01 mẫu chất bột, màu trắng gửi giám định là ma túy; loại Heroine (không hoàn lại đối tượng giám định).
Tại Bản cáo trạng số: 01/CT-VKS ngày 09 tháng 12 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu để xét xử bị cáo Tẩn U M về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã truy tố, không oan, không sai.
Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Về hình phạt chính: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, được trừ 09 ngày bị cáo bị tạm giữ; Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự; Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: tịch thu, tiêu hủy 30 mảnh nilon màu vàng; 01 chiếc tất nhiều màu sắc và 1,24 gam Heroine là vật chứng còn lại trong vụ án.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày: về tội danh, đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát; về hình phạt bổ sung: đề nghị miễn không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, do hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, không có điều kiện thi hành; về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội đã thực hiện. Đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo mức án ở mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng; đề nghị xử lý vật chứng còn lại trong vụ án theo quy định tại Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo, do bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 37 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 42 của Bộ luật Tố tụng hình sự; người bào chữa đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 73 của Bộ luật tố tụng hình sự. Các tài liệu, chứng cứ được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định. Nên các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.
[2] Đánh giá chứng cứ, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên, Người bào chữa, bị cáo:
Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định và có giá trị pháp lý. Những chứng cứ buộc tội, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ pháp luật, phù hợp với nhân thân của bị cáo, với mức độ nghiêm trọng, nguy hại cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nên được chấp nhận toàn bộ. Quan điểm của người bào chữa tại phiên tòa đối với tội danh, việc áp dụng hình phạt bổ sung, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, về xử lý vật chứng, không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí đối với bị cáo là có căn cứ pháp lý, phù hợp với nhân thân của bị cáo, nên được chấp nhận. Đối với đề nghị áp dụng hình phạt đối với thấp nhất của khung hình là có căn cứ pháp lý. Tuy nhiên, do khối lượng chất ma túy của bị cáo là tương đối lớn theo quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự; việc xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất của khung hình phạt là chưa tương xứng với mức độ nghiêm trọng, nguy hại cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, không phù hợp với nhân thân của bị cáo; chưa phục vụ tốt công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ở địa phương, nên đề nghị này không được chấp nhận.
Có đủ cơ sở để xác định bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như sau: Vào hồi 07 giờ 30 phút ngày 10 tháng 9 năm 2021, tại nhà ở của Tẩn U M, tại bản Phăng Sô L, xã Phăng Sô L, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Bị cáo Tẩn U M đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 30 gói Heroine có tổng khối lượng là 1,38 gam, với mục đích để bản thân sử dụng, thì bị Tổ công tác Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu phối hợp với Công an xã Phăng Sô L phát hiện, bắt quả tang. Bị cáo Tẩn U M là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Do vậy, bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Nhận thức rõ tác của việc sử dụng chất ma túy đối với bản thân người sử dụng và gia đình. Bị cáo là người có nhân thân không tốt. Năm 2017 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu xử phạt 02 năm tù, về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Nhưng sau khi chấp hành xong hình phạt tù, được trở về với gia đình, với đời sống xã hội, bị cáo không chịu giữ gìn, rèn luyện đạo đức, không chấp hành tốt nghĩa vụ của người công dân. Bị cáo lại tiếp tục sử dụng chất ma túy và tái nghiện, nên đã cố ý thực hiện hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma túy để bản thân sử dụng. Nên cần áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, để bị cáo chấm dứt được tình trạng nghiện, tiếp tục giáo dục, cải tạo bị cáo để bị cáo có thể trở thành người công dân có ích cho xã hội; đồng thời giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật; đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; trình độ học vấn của bị cáo là 0/12, nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng trong pháp luật của Nhà nước.
[5] Về hình phạt bổ sung:
Xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, không có khả năng thi hành hình phạt tiền, hình phạt tịch thu tài sản; bị cáo không lao động trong các ngành, nghề hoặc đảm nhiệm công việc cần phải cấm; nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
[6] Về xử lý vật chứng:
Khối lượng Heroine bị cáo tàng trữ là 1,38 gam, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ đã trích gửi 0,14 gam làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy. Đối với 0,14 gam Heroine đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu gửi đi giám định chất ma túy. Sau khi giám định và có kết luận, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu không hoàn lại mẫu vật, nên không đề cập xử lý. Số Heroine là vật chứng trong vụ án có khối lượng 1,24 gam, là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành. Cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự để tịch thu và tiêu hủy.
Đối với 30 mảnh nilon màu vàng và 01 chiếc tất nhiều màu đã được sử dụng để gói, cất giấu Heroine. Hiện nay những vật chứng này không có giá trị, không sử dụng được, cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự để tịch thu và tiêu hủy.
[7] Về án phí:
Theo quy định tại Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, tại phiên tòa bị cáo xin được miễn nộp tiền án phí, nên được miễn nộp tiền án phí Hình sự sơ thẩm. [8] Về quyền kháng cáo:
Theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
[9] Về nguồn gốc Heroine và trách nhiệm của người có liên quan:
Theo lời khai của bị cáo thì 1,38 gam Heroine bị cáo tàng trữ là do mua của một người đàn ông không rõ lai lịch, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; Điều 38; điểm a, c khoản 1 Điều 47; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, các Điều 135, 136, 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Tuyên bố: bị cáo Tẩn U M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” 2. Hình phạt chính:
Xử phạt bị cáo Tẩn U M 01 năm 08 tháng (một năm tám tháng) tù, được trừ 09 ngày tạm giữ, bị cáo còn phải thi hành tù 01 năm 07 tháng 21 ngày (một năm bảy tháng hai mươi mốt ngày) tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án.
3. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
4. Xử lý vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy 30 mảnh nilon màu vàng, 01 chiếc tất nhiều màu sắc và 1,24 gam Heroine.
5. Án phí sơ thẩm: Bị cáo được miễn nộp tiền án phí Hình sự sơ thẩm.
6. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 21 tháng 01 năm 2022).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2022/HS-ST
Số hiệu: | 26/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sìn Hồ - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về