Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH HƯNG, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 26/2021/HS-ST NGÀY 26/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 26 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 27/2021/TLST-HS ngày 27 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị L, sinh năm 1993. Tên gọi khác: Ly. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: ấp Tr, xã B, huyện V, tỉnh Long An; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Chí D1, sinh năm 1966 và bà Võ Thị Kim L1, sinh năm 1966; bị cáo chưa có chồng con; Tiền án: Ngày 18/4/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chấp hành xong án từ ngày 22/01/2020; Tiền sự: Ngày 04/4/2021, bị Trưởng Công an xã Thái Bình Trung, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An xử phạt 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Về nhân thân: ngày 21/6/2017, bị Trưởng Công an xã Thái Bình Trung, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An xử phạt 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/5/2021 đến ngày 23/5/2021 chuyển tạm giam cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Lê Thị Hồng Nh1, sinh năm 2000 (vắng mặt). Địa chỉ: Ấp Q, xã Th, huyện V, tỉnh Long An.

Bà Nguyễn Thị V1, sinh năm 1992 (vắng mặt). Địa chỉ: A, thị trấn V, huyện V, tỉnh Long An. Ông Nguyễn Tấn Tài, sinh năm 1999 (vắng mặt).

Địa chỉ: Khu phố Đ, thị trấn V, huyện V, tỉnh Long An - Người làm chứng:

Ông Lưu Văn Tr1, sinh năm 1993 (vắng mặt). Địa chỉ: Ấp Q, xã Th, huyện V, tỉnh Long An

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

- Cáo trạng số 27/CT-VKSVH ngày 26 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Hưng đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị L về tội “Tàng trữ trái phép ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, với hành vi được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 15 phút ngày 14/5/2021, tại đường liên xã Th - B thuộc ấp Tr, xã B lực lượng chức năng kiểm tra bị cáo Nguyễn Thị L khi bị cáo khi đang điều khiển xe mô tô di chuyển trên đường thì phát hiện và thu giữ một gói thuốc hiệu Nelson, bên trong có 01 túi ny lon, có rãnh khép, đựng tinh thể màu trắng, để ở hộc trước của xe mô tô biển số 54S8-5635; lực lượng chức năng đã tiến hành niêm phong túi ny lon nên trên, có mã số NS3-1918797, có chữ ký của Nguyễn Thị L và Lê Thị Hồng Nh1. Đến 15 giờ 00 phút cùng ngày, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của L ở ấp Tr, xã B, qua khám xét phát hiện, thu giữ trong thùng carton hiệu Scott 01 túi xách nữ, màu đỏ đen, hiệu Pond’s, bên trong có 03 túi nylon, có rãnh khép, dạng tinh thể màu trắng và trong hộp nhựa màu trắng, hình tròn, có nắp đậy, bên trong có 07 túi ny lon, có rãnh khép, dạng tin thể màu trắng, tất cả các túi ny lon được niêm phong mã số NS3-1918793, có chữ ký của Nguyễn Thị L và Lê Thị Hồng Nh1. Tất cả các túi ma túy nêu trên bị cáo khai mua với giá 900.000 đồng của người Campuchia (không rõ lai lịch) vào ngày 12/5/2021 đem về cất giấu tại nhà để giành sử dụng; bị cáo sử dụng xe mô tô biển số 54S8-5635 của mình đi nhận ma túy tại đường kênh Hữu Nghị thuộc ấp M, xã B, ma túy do một người xe ôm giao, bị cáo không biết tên họ, địa chỉ. Ngày 14/5/2021, bị cáo lấy một ít ma túy tìm chỗ sử dụng thì bị công an phát hiện thu giữ.

Tại kết luận giám định số 463/2021/KLGĐ ngày 21/5/2021, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An kết luận:

“Túi ký hiệu M1: Tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) túi nylon có rãnh khép được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 0,4430 gam, loại: Methamphetamine.

Túi ký hiệu M2: Tinh thể màu trắng đựng trong 10 (mười) túi nylon có rãnh khép được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 4,1961 gam, loại: Methamphetamine.

- Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Hưng đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L từ 03 năm đến 04 năm tù.

Lê Thị Hồng Nh1 khai bị cáo L có 04 lần đưa ma túy cho Nh1 bán nhưng bị cáo L không thừa nhận, những người mua ma túy mà Nh1 khai thì có một người không biết họ tên, địa chỉ, ông Triều thì khai không biết bị cáo L, Nguyễn Thanh Tùng và Phạm Thị Hồng Nh2 thì không có mặt tại địa phương nên không xác minh được; ma túy mà Nh1 khai cũng không thu giữ được, vì vậy không có cơ sở để xem xét hành vi mua bán ma túy của bị cáo L và những người liên quan.

Đối với Lê Thị Hồng Nh1 đi chung xe với bị cáo khi bị công an bắt quả tang nhưng Nh1 không biết bị cáo có tàng trữ ma túy nên không có căn cứ để xem xét trách nhiệm.

Đối với người bán ma túy là người Campuchia và người xe ôm giao ma túy cho bị cáo L, do không rõ họ tên, địa chỉ nên không có đủ căn cứ để điều tra làm rõ, vì vậy không có cơ sở để xem xét.

Về vật chứng của vụ án đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư niêm phong, bên ngoài gói ký hiệu vụ số: 463 ngày 21/5/2021, người chứng kiến Nguyễn Thị Quế Châu, người niêm phong Hà Chí Công. Tịch thu nộp vào Ngân sách Nhà nước 01 xe mô tô hiệu Yamaha, số loại: 44S1, loại xe: Hai bánh, màu sơn: Trắng - đỏ, biển số: 54S8 - 5635, số khung: AY-002457, số máy: 44S1-002463, dung tích: 124 có giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 024851 mang tên Thái Hoàng D2 đứng tên chủ sở hữu xe mô tô hiệu Yamaha, biển số 54S8 - 5635 là xe của bị cáo mua lại của người khác, bị cáo sử dụng để đi mua ma túy về tàng trữ; 01 cân điện tử không có nhãn hiệu, màu đen, bên trong có chữ INSTRUCTION.

- Ý kiến của bị cáo: Bị cáo thừa nhận hành vi vi phạm như cáo trạng đã nêu, xe mô tô mà bị cáo sử dụng đi lấy ma túy và cất ma túy đi tìm chỗ sử dụng là xe của bị cáo mua lại của bà V1 với giá 6.500.000 đồng có giấy tờ xe do bà D2 đứng tên, bị cáo không làm thủ tục sang tên.

- Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà V1 và ông T1 khai trong biên bản ghi lời khai thể hiện: khoảng tháng 4 năm 2020 bà V1 có bán xe mô tô biển số số 54S8 – 5635 cho bị cáo L giá 6.500.000 đồng, không làm giấy tờ chỉ giao xe và giấy đăng ký xe cho bị cáo L, xe này bà V1 mua của ông T1 với giá 10.000.000 đồng. Ông T1 cũng xác nhận có bán xe cho bà V1 với giá nêu trên, xe này ông T1 cũng mua lại của người khác với giá 15.000.000 đồng và không làm thủ tục sang tên tên.

- Lời khai của người làm chứng ông Tr2 khai trong biên bản ghi lời khai: Có gặp bà Nh1 và mua ma túy 01 lần với giá 200.000 đồng để sử dụng, ông đưa tiền và nhận ma túy do Nh1 giao, không biết bị cáo L.

Thực hiện quyền được nói lời sau cùng bị cáo nói: Bị cáo rất ăn năn, hối hận về hành vi của mình nên xin xem xét được giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về tố tụng: Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, Hội đồng xét xử xét thấy hồ sơ vụ án đã có đầy đủ tài liệu chứng cứ có liên quan và xét việc vắng mặt không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên căn cứ vào Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt những người nêu trên.

[3] Về hành vi phạm tội: Bị cáo Nguyễn Thị L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo, kết luận giám định số 463/2021/KLGĐ ngày 21/5/2021, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét nơi ở và lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cụ thể: Ngày 14/5/2021, bị cáo bị bắt quả tang đang tàng trữ 01 túi ny lon, có rãnh khép, đựng tinh thể màu trắng, và khám xét khẩn cấp nhà ở của bị cáo tại ấp Tr, xã B, huyện V tiếp tục thu giữ 10 túi ny lon, có rãnh khép, đựng tinh thể màu trắng, tất cả đều bị cơ quan công an thu giữ, niêm phong và trưng cầu giám định, kết quả giám định xác định: Tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) túi nylon gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng:

0,4430 gam, loại: Methamphetamine; tinh thể màu trắng đựng trong 10 (mười) túi nylon gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 4,1961 gam, loại: Methamphetamine. Bị cáo khai nhận toàn bộ ma túy là của bị cáo, bị cáo tàng trữ để sử dụng, không có mục đích mua bán, trao đổi cho người khác.

Đối với lời khai của Nh1 về việc có 04 lần đưa ma túy cho người khác theo yêu cầu của bị cáo L nhưng bị cáo L không thừa nhận và những người mà Nhớ đã khai thì Lưu Văn Tr2 không thừa nhận có mua ma túy của bị cáo, Nguyễn Thanh T2 và Phạm Thị Hồng Nh2 thì không có mặt tại địa phương và người còn lại thì Nh1 khai không biết tên, ngoài ra không còn tài liệu chứng cứ nào khác để chứng minh việc bị cáo L có thực hiện hành vi mua bán ma túy vì vậy Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có căn cứ, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, ADMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[4] Về năng lực trách nhiệm hình sự: Bị cáo L là người đã thành niên, có đầy đủ năng lực hành vi, bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép ma túy dưới mọi hình thức đều vi phạm pháp luật, nhận thức được những tác hại của ma túy đối với xã hội, cá nhân người sử dụng là rất lớn như: Người sử dụng ma túy sẽ lâm vào tình trạng nghiện, gây ảo giác, là nguyên nhân phát sinh một số tội phạm như cố ý gây thương tích, trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt tài sản… nhưng chỉ vì để thỏa mãn cơn nghiện bị cáo vẫn thực hiện hành vi tàng trữ tổng cộng 4,6391 gam, loại: Methamphetamine. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm của mình, cần phải áp dụng cho bị cáo một hình phạt thật nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để giáo dục ý thức tuân theo pháp luật và thể hiện tính răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội. Hội đồng xét xử cũng cần phân tích, đánh giá tính chất mức độ, hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân của bị cáo để quyết định mức hình phạt tương xứng.

[5] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự được xem xét áp dụng đối với bị cáo như sau:

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo bị xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 22/01/2020, bị cáo chưa được xóa án tích, bị cáo không lấy đó làm bài học cảnh tỉnh bản thân mà tiếp tục có hành vi vi phạm nên bị cáo phải bị áp dụng tình tiết tăng nặng là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Ngoài ra, bị cáo còn có tiền sự là ngày 04/4/2021, bị công an xã Thái bình Trung, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An xử phạt 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; có nhân thân xấu: Ngày 21/6/2017, bị công an xã Thái Bình Trung xử phạt 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Từ các phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử khẳng định Cáo trạng số 27/CT-VKSVH ngày 26 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Hưng đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự và đề nghị mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[6] Về vật chứng của vụ án:

Đối với toàn bộ số ma túy còn lại được để trong bì thư niêm phong, bên ngoài gói ký hiệu vụ số: 463 ngày 21/5/2021, người chứng kiến Nguyễn Thị Quế Châu, người niêm phong Hà Chí Công là hàng cấm lưu hành, tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

Đối với 01 xe mô tô hiệu Yamaha, số loại: 44S1, loại xe: Hai bánh, màu sơn: Trắng - đỏ, biển số: 54S8 - 5635, số khung: AY-002457, số máy: 44S1- 002463, dung tích: 124, có giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 024851 mang tên Thái Hoàng D2 đứng tên chủ sở hữu xe mô tô hiệu Yamaha, biển số 54S8 - 5635 là xe của bị cáo mua lại của người khác, bị cáo sử dụng để đi mua ma túy về tàng trữ và cất giấu ma túy khi đi tìm chỗ sử dụng; 01 cân điện tử không có nhãn hiệu, màu đen, bên trong có chữ INSTRUCTION bị cáo dùng để cân trọng lượng khi chia nhỏ ma túy, đây là các công cụ, phương tiện phạm tội nên cần tịch thu nộp vào Ngân sách Nhà nước là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

[7] Đối với Lê Thị Hồng Nh1 đi chung xe với bị cáo khi bị công an bắt quả tang nhưng Nhớ không biết bị cáo có tàng trữ ma túy nên không có căn cứ để xem xét trách nhiệm.

Đối với người bán ma túy là người Campuchia và người xe ôm giao ma túy cho bị cáo L, do không rõ họ tên, địa chỉ nên không có đủ căn cứ để điều tra làm rõ, vì vậy không có cơ sở để xem xét.

[8] Về án phí: Bị cáo L không thuộc trường hợp được miễn giảm án phí nên bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L 04 (bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14 tháng 5 năm 2021.

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án. Thời hạn tạm giam là 45 ngày kể từ ngày tuyên án.

Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư niêm phong, bên ngoài gói ký hiệu vụ số: 463 ngày 21/5/2021, người chứng kiến Nguyễn Thị Quế Châu, người niêm phong Hà Chí Công.

Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước 01 xe mô tô hiệu Yamaha, số loại: 44S1, loại xe: Hai bánh, màu sơn: Trắng - đỏ, biển số: 54S8 - 5635, số khung: AY-002457, số máy: 44S1-002463, dung tích: 124, có giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 024851 mang tên Thái Hoàng D2 đứng tên chủ sở hữu xe mô tô hiệu Yamaha, biển số 54S8 - 5635; 01 cân điện tử không có nhãn hiệu, màu đen, bên trong có chữ INSTRUCTION.

Các vật chứng nêu trên hiện đang do Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Vĩnh Hưng đang quản lý.

Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Buộc bị cáo Nguyễn Thị L phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

Bị cáo Nguyễn Thị L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị Hồng Nh1, ông Nguyễn Tấn T1, bà Nguyễn Thị V1 có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2021/HS-ST

Số hiệu:26/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Hưng - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về