Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 258/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 258/2021/HS-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 296/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 279/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Minh T, sinh năm 1999 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: Tổ B, khu phố M H, phường Th H, thị xã T U, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Minh H, sinh năm 1977 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1978; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 14/5/2021, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Ngọc S, sinh năm 1976; thường trú: Ấp H T, xã B L, huyện X M, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; vắng mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người chứng kiến: Ông Huỳnh Anh T và ông Võ Thanh Qu; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bản thân Trần Minh T là người sử dụng trái phép chất. Khoảng 11 giờ ngày 14/5/2021, T được một đối tượng tên Qu là bạn bè quen biết nhau ngoài xã hội (không rõ nhân thân, lại lịch) nhờ đến cầu Ô B thuộc phường B H, thành phố Th A, tỉnh Bình Dương gặp đối tượng tên Qu (không rõ nhân thân, lai lịch) để lấy dùm ma túy đem về quán cà phê “Kh Gi X” thuộc phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương cho tên Qu. Sau đó, T điều khiển xe mô tô, biển số 72K3- 2202, nhãn hiệu Majesty màu xanh chạy đến khu vực cầu Ô B thuộc phường B H, thành phố Th A, tỉnh Bình Dương. Tại đây, T gặp một thanh niên tên Qu thì Qu đưa cho T 01 cân tiểu ly và 01 cục sạc điện thoại di động dự phòng màu trắng có chữ ARUN và nói cho T biết trong cục sạc pin dự phòng có 02 gói ma túy mang về cho Qu, T nhận rồi cầm cục sạc dự phòng chứa ma túy và cân tiểu ly bỏ vào giỏ xách của mình. Sau đó, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên T hỏi Qu mua thêm 4.400.000 đồng ma túy, tên Qu đưa cho Tuấn 01 túi nilon miệng kéo dính đựng 01 gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng. Sau khi nhận và mua được ma túy T về lại quán cà phê “Kh Gi X” thuộc phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương, vào chòi số 3 Tuấn ngồi. Lúc này, có lực lượng Công an phường T Đ H vào kiểm tra thì phát hiện trong túi xách của Trần Minh T đang đeo trên người có 01 cân tiểu ly, 01 cục sạc điện thoại dự phòng màu trắng có chữ ARUN, bên trong cục sạc dự phòng có 02 túi nilon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng, tiếp tục kiểm tra Công an phát hiện trong túi áo khoác bên phải của T đang mặc có 01 túi nilon miệng kéo dính đựng 01 gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, T khai nhận là ma túy nên lực lượng Công an phường T Đ H lập biên bản người có hành vi phạm tội quả tang cùng tang vật.

Vật chứng thu giữ gồm: 01(một) gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng; 02 (hai) túi nilon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng; 01 (một) cân tiểu ly; 01 (một) cục sạc dự phòng điện thoại màu trắng có chữ ARUN và 01 (một) túi xách màu xám, trên thân túi xách có chữ Chenny.

Căn cứ kết luận giám định số: 255/MT-PC09, ngày 21/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: 01 (một) gói nilon miệng kéo dính đựng 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, có khối lượng 2,0208 gam và 02 (hai) túi nilon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng, có khối lượng 6,4193 gam, đều là ma túy, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì kết luận giám định số: 255/MT-PC09, ngày 21/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

Đối với tên Qu bán ma túy cho Trần Minh T tại khu vực phường B H, thành phố Th A, tỉnh Bình Dương và tên Qu nhờ Trần Minh T đi lấy ma túy dùm, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Tại Cáo trạng số: 312/CT-VKS ngày 31 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố Trần Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Trần Minh T từ 06 năm 06 tháng tù đến 07 năm 06 tháng tù.

* Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) xe mô tô, biển số 72K3-2202, nhãn hiệu Majesty màu xanh, là tài sản của ông Nguyễn Ngọc S cho T mượn để làm phương tiện đi lại, việc T sử dụng làm phương tiện phạm tội ông S không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An trả lại xe cho ông S.

- Xét 01 (một) gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, có khối lượng 2,0208 gam, loại Methamphetamine; 02 (hai) túi nilon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng, có khối lượng 6,4193 gam loại Methamphetamine; 01 (một) cân tiểu ly; 01 (một) cục sạc dự phòng điện thoại màu trắng có chữ ARUN và 01 (một) túi xách màu xám, trên thân túi xách có chữ Chenny là vật cấm lưu thông, công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Do bị cáo có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên không có lời nói sau cùng, tuy nhiên trong quá trình điều tra và đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của của mình như Cáo trạng đã truy tố đồng thời bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và trong đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đối với bị cáo Trần Minh T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị cáo là đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 14 giờ ngày 14/5/2021, tại chòi số B, quán cà phê “Kh Gi X”, thuộc khu phố Ch L, phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Lực lượng Công an phường T Đ H kiểm tra phát hiện bắt quả tang Trần Minh T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có tổng khối lượng 8,4401 gam, loại Methamphetamine.

[3] Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo Trần Minh T tàng trữ ma túy có tổng khối lượng 8,4401 gam, loại Methamphetamine, mục đích tàng trữ để sử dụng, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số: 312/CT-VKS ngày 31 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Trần Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý, sử dụng độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như trong đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[7] Về nhân thân: Bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên bị cáo là người nghiện ma túy nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[8] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, đã xâm phạm vào sự quản lý, sử dụng độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý đồng thời là người nghiện ma túy, hành vi phạm tội của bị cáo ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

- Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) xe mô tô, biển số 72K3-2202, nhãn hiệu Majesty màu xanh, là tài sản của ông Nguyễn Ngọc S cho T mượn để làm phương tiện đi lại, việc T sử dụng làm phương tiện phạm tội ông S không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An trả lại xe cho ông S.

- Xét 01 (một) gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, có khối lượng 2,0208 gam, loại Methamphetamine; 02 (hai) túi nilon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng, có trọng lượng 6,4193 gam loại Methamphetamine; 01 (một) cân tiểu ly; 01 (một) cục sạc dự phòng điện thoại màu trắng có chữ ARUN và 01 (một) túi xách màu xám, trên thân túi xách có chữ Chenny, là vật cấm lưu thông, công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Đối với tên Qu bán ma túy cho Trần Minh T tại khu vực phường B H, thành phố Th A, tỉnh Bình Dương và tên Qu nhờ Trần Minh T đi lấy ma túy dùm, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau, là đúng theo quy định của pháp luật.

[11] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

 Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Trần Minh T 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 14/5/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong ghi số vụ 255/MT-PC09, bên trong có 01 (một) gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, có khối lượng 2,0208 gam, loại Methamphetamine; 02 (hai) túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng, có khối lượng 6,4193 gam loại Methamphetamine; 01 (một) cân tiểu ly; 01 (một) cục sạc dự phòng màu trắng có chữ ARUN và 01 (một) túi xách màu xám.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 02/9/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Trần Minh T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 258/2021/HS-ST

Số hiệu:258/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về