Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 255/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 255/2022/HS-ST NGÀY 15/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 240/2022/TLST- HS ngày 04 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 249/2022/QĐXXST- HS ngày 25 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 32/2022/HSST-QĐ ngày 07 tháng 9 năm 2022 đối với Bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn Ch; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1981, tại Điện Biên; Nơi cư trú: Bản N, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa (học vấn): 04/12; Con ông: Lò Văn T – Sinh năm 1952 và con bà: Lò Thị N – Sinh năm 1952; Vợ: Lò Thị X – Sinh năm 1976; Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2010; Tiền sự: Không; Tiền án: Không. Nhân thân: Bị cáo chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; Chưa bị Tòa án nào xét xử.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/6/2022 sau đó chuyển sang tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 10 phút ngày 01/6/2022, tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an huyện Điện Biên đang làm nhiệm vụ tại khu vực đội bản N, xã T, huyện Đ phát hiện, bắt quả tang Lò Văn C có hành vi tàng trữ 01 gói chất bột màu trắng nghi là Heroine được gói bằng nilon màu trắng có khối lượng 0,2 gam. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ 01 gói được gói bên ngoài bằng nilon màu trắng miệng hơ lửa hàn kín mở bên trong có các cục bột màu trắng có khối lượng 0,2 gam.

Quá trình điều tra Lò Văn C khai nhận nguồn gốc gói chất bột màu trắng bị thu giữ là Heroine. Để có ma túy sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu bất chính của bản thân nên khoảng 13 giờ ngày 01/6/2022, C đi bộ một mình từ nhà ở bản N, xã T, huyện Đ với mục đích tìm mua Heroine về sử dụng. Khi đến đầu bản N, C vào nhà của một người phụ nữ tên là B (có con trai tên là Q) và mua được của B 01 gói Heroine được gói bên ngoài bằng mảnh nilon màu trắng miệng hơ lửa hàn kín với giá 350.000 đồng. Sau đó, C cầm gói Heroine ở tay phải rồi đi bộ về nhà. Về đến nhà C dùng tay phải cấu một ít Heroine ra và sử dụng bằng hình thức hít. Số Heroine còn lại C dùng bật lửa hàn kín miệng gói lại như cũ rồi cất dưới chăn ở đầu giường ngủ của C. Đến hồi 15 giờ 10 phút cùng ngày, khi C lấy gói Heroine dưới chăn ra định sử dụng thì bị tổ công tác phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và niêm phong vật chứng ngày 01/6/2022 đã xác định như sau: Số chất bột màu trắng nghi là Heroine thu giữ của Lò Văn C có tổng khối lượng là 0,2 gam gửi toàn bộ giám định.

Tại bản kết luận giám định số 745/KL-KTHS ngày 08/6/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng có khối lượng 0,2 gam thu giữ của Lò Văn C gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine. Kèm theo kết luận giám định hoàn lại đối tượng giám định 0,13 gam và bì niêm phong cũ có biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định kèm theo.

Tại bản cáo trạng số 159/CT-VKSĐB ngày 04/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên truy tố bị cáo Lò Văn C về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo: Từ 14 tháng đến 17 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với Bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy gồm: 0,13 gam Heroine là vật chứng còn lại của vụ án.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án , Bị cáo được miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận, hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên.

Lời nói sau cùng của Bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo Lò Văn C xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho Bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của Bị cáo: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn C khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định, Kết luận điều tra, các bản cung, biên bản ghi lời khai có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với Bị cáo, có đủ cơ sở khẳng định: Hồi 15 giờ 10 phút, ngày 01/6/2022 tại nhà của Lò Văn C tại bản N, xã T, huyện Đ, Lò Văn C bị tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an huyện Điện Biên phát hiện, bắt quả tang vì đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,2 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Nguồn gốc số Heroine bị thu giữ là do C khai mua của một người phụ nữ tên B (có con trai tên là Q) là người cùng bản với số tiền 350.000 đồng (Ba trăm năm mươi nghìn đồng). Hành vi của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, vi phạm pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi nêu trên của Bị cáo có đủ các yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

c) Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;" Từ những phân tích trên, khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Lò Văn C về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2] Về tính chất của vụ án: Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi cất giấu trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận xấu trên địa bàn. Mặt khác ma túy là hiểm họa của loài người, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Chính vì vậy Bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội mà mình đã gây ra. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với Bị cáo để giáo dục Bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân:

[3.1] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3.2] Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Thành khẩn khai báo” được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.

[3.3] Về nhân thân: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Được gia đình nuôi cho ăn học hết lớp 04/12 thì nghỉ học ở nhà làm kinh tế phụ giúp gia đình. Năm 2002 kết hôn với chị Lò Thị X và có với nhau 02 người con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2010. Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2015 cho đến nay.

[4] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính Bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy Bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, nghề nghiệp của bị cáo là làm ruộng không có thu nhập ổn định, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, bị cáo thuộc hộ nghèo không có khả năng thi hành. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Bị cáo.

[5] Đề nghị của Kiểm sát viên: Xét thấy đề nghị của Kiểm sát viên về mức hình phạt đối với Bị cáo từ 14 tháng đến 17 tháng tù. Hội đồng xét xử thấy là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo nên cần được chấp nhận.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Cơ quan truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố t ụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[7] Về xử lý vật chứng: Số Heroine bị thu giữ của Bị cáo có khối lượng là 0,2 gam, đã gửi giám định hoàn lại 0,13 gam là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS và điểm a khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

[8] Các vấn đề khác: Bị cáo khai nguồn gốc số ma túy Cơ quan điều tra thu giữ do Bị cáo mua của một người phụ nữ tên B (có con trai tên là Q) là người cùng bản với Bị cáo. Quá trình điều tra tại bản N, xã T, huyện Đ có đối tượng Lò Thị B – Sinh năm 1962. Tại cơ quan điều tra B không thừa nhận có sự việc bán ma túy cho C vào ngày 01/6/2022. Cơ quan điều tra đã tiến hành triệu tập B để làm việc và đối chất nhưng Lò Thị B đi vắng không có ở nhà cũng như ở địa phương nên cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý khi có căn cứ. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét xử lý trong vụ án này.

[9] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14. Bị cáo thuộc hộ nghèo nên miễn toàn bộ án phí HSST cho bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn C phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt Bị cáo: 01 năm 03 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (Ngày 01/6/2022).

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 0,13 gam Heroine là vật chứng còn lại của vụ án.

(Vật chứng của vụ án đã được Cơ quan điều tra Công an huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên chuyển giao cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/8/2022).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo được miễn toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

81
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 255/2022/HS-ST

Số hiệu:255/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:15/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về