Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 25/2024/HS-ST NGÀY 26/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26/3/2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh C xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 13/TLST - HS ngày 23/02/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2004/QĐXXST - HS ngày 12 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Duy P (Tên gọi khác không); Giới tính: Nam; Sinh ngày 08/3/1990 tại huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ 35, phường Cốc Lếu, thành phố C, tỉnh C.; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn L (đã chết) và bà Đặng Thị Nhâm; Vợ: Lê Ngọc Th; Bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2021;

Tiền án: 02 (Tại bản án số 23/2018/HSST ngày 27/3/2018 Toà án nhân dân thành phố C, xét xử Trần Duy P tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, phạt 3 năm 6 tháng tù. Tại bản án số 09/2021/HSST ngày 28/1/2021 Toà án nhân dân thành phố C, xét xử Trần Duy P tù tội Mua bán trái phép chất ma tuý, phạt 2 năm 6 tháng tù) Tiền sự: Không Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/11/2023. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố C - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 10/11/2023, Trần Duy P (sinh năm 1990, nơi cư trú: Tổ 35, phường Cốc Lếu, thành phố C, tỉnh C) một mình ngồi ở quán nước tại khu vực đường gần quán bar FaceClub thuộc tổ 7, phường Duyên Hải, thành phố C, tỉnh C nhìn thấy một người nam giới đứng một mình ở ven đường. Trần Duy P đi đến vị trí người nam giới hỏi “có biết chỗ nào lấy hồng không”, người nam giới trả lời “lấy nhiều không”. Trần Duy P dùng tay trái cầm số tiền 1.700.000 (một triệu bảy trăm nghìn) đồng đưa cho người nam giới. Người nam giới cầm tiền rồi đưa cho Trần Duy P 01 (một) bọc được cuốn bên ngoài bằng băng dính màu đen và nói “bên trong có năm mươi viên đấy”. Biết bên trong là ma tuý nên Trần Duy P dùng tay phải nhận gói ma tuý rồi cất giấu vào trong túi áo khoác bên phải đang mặc trên người rồi thuê xe ô tô taxi đi về nhà ở số 065, đường Đặng Trần Côn, tổ 35, phường Cốc Lếu, thành phố C, tỉnh C. Tại phòng ngủ, Trần Duy P treo chiếc áo khoác có giấu ma tuý trong túi bên phải lên mắc quần áo gắn trên tường.

Đến khoảng 20 giờ 30 phút ngày 21/11/2023, Trần Duy P lấy chiếc áo khoác có giấu ma tuý trước đó mặc vào người rồi điều khiển xe mô tô, biển kiểm soát 24B2 - xxxxx đi ra khỏi nhà. Khoảng 20 giờ 40 phút cùng ngày, Trần Duy P đang điều khiển xe mô tô đi trên đường Hoàng Liên thuộc tổ 19, phường Kim Tân, thành phố C, tỉnh C, thì bị tổ công tác số 1 Đội Cảnh sát giao thông - trật tự Công an thành phố C dừng xe kiểm tra. Quá trình kiểm tra có mời ông Trần Văn Bảo (sinh năm 1966, nơi cư trú: Tổ 1, phường Bắc Cường, thành phố C, tỉnh C) và ông Nguyễn Văn Đ (sinh năm 1982, nơi cư trú: xã Bình Hoà, huyện Giao Thỷ, tỉnh Nam Định) là người chứng kiến. Trước sự có mặt của người chứng kiến, tổ công tác tiến hành thu giữ trên vỉa hè tại vị trí Trần Duy P đứng có 01 (một) bọc được cuốn bên ngoài bằng băng dính màu đen, mở kiểm tra bên trong là 01 (một) túi nilon màu hồng chứa 47 (bốn mươi bảy) viên nén hình tròn, màu hồng, trên một mặt của mỗi viên nén đều được dập chìm chữ “WY”; 01 (một) viên nén hình tròn, màu xanh;

các mảnh viên nén màu hồng. Trần Duy P khai nhận toàn bộ các viên nén, mảnh viên nén trên là ma túy hồng phiến là của P, mục đích để sử dụng cho bản thân. Do không đội mũ bảo hiểm nên khi bị yêu cầu dừng xe kiểm tra, Trần Duy P đã điều khiển xe quay đầu lên vỉa hè bỏ chạy rồi dùng tay phải lấy bọc ma túy Hồng phiến ở trong túi áo bên phải đang mặc ra ném vào vị trí tường rào sắt của công viên Nhạc Sơn rơi xuống vỉa hè. Tổ công tác dẫn giải Trần Duy P cùng toàn bộ vật chứng, phương tiện về trụ sở Công an thành phố C lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo qui định. Ngoài ra còn tạm giữ của Trần Duy P 01 (một) xe mô tô, biển kiểm soát 24B2 - xxxxx; 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu IPHONE; 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Sam sung; Tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam 3.500.000đồng (ba triệu năm trăm nghìn) .

Tại kết luận giám định số 358/GĐMT, ngày 29/11/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh C kết luận:

- Mẫu M1: 3,98 (ba phẩy chín mươi tám) gam các viên nén hình tròn, màu hồng, có đặc điểm giống nhau, trên bề mặt của mỗi viên nén đều được dập chìm chữ “WY” và các mảnh viên nén màu hồng là loại chất ma tuý Methamphetamine.

- Mẫu M2: Không tìm thấy chất ma tuý trong viên nén hình tròn, màu xanh có khối lượng 0,09 (không phẩy không chín) gam Tại phiên tòa bị cáo Trần Duy P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Cáo trạng số 13CT - VKS ngày 22/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố C đã truy tố bị cáo Trần Duy P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đ diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C giữ quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh theo bản cáo trạng đã truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất mức độ thực hiện hành vi của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Duy P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1,2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo với mức án từ 05 năm đến 05 năm 03 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo từ 5.000.000đ đến 6.000.000đ.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2, 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý vật chứng theo quy định. Tuyên án phí và quyền kháng cáo cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo có cơ hội cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố C, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bi cao Trần Duy P: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận tội ngày 10/11/2023, bị cáo mua của một người nam giới không quen biết ở khu vực tổ 7 phường Duyên Hải 1.700.000 đồng được 01 (một) bọc bên trong chứa ma tuý, khoảng 20 giờ 30 phút ngày 21/11/2023, bị cáo lấy chiếc áo khoác có giấu ma tuý trước đó mặc vào người rồi điều khiển xe mô tô đi ra khỏi nhà.

Khoảng 20 giờ 40 phút cùng ngày khi đang điều khiển xe mô tô đi trên đường Hoàng Liên thuộc tổ 19, phường Kim Tân thì bị phát hiện bắt quả tang cùng toàn bộ vật chứng.

Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Trần Duy P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người chứng kiến, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Theo kết luận giám định khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ là 3,98 gam ma túy Methamphetamine Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, tại bản án số 09/2021/HSST ngày 28/1/2021 của Toà án nhân dân thành phố C, Trần Duy P đã bị áp dụng tình tiết tăng nặng là tái phạm, vì vậy lần phạm tội này của bị cáo cần áp dụng điểm o khoản 2 điều 249 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, vì vậy cần phải xét xử bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, cải tạo và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo Trần Duy P không có tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo có ông Ngoại được tặng Bằng khen kháng chiến. Vì vậy cần cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1,2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.

[5] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung thu giữ của bị cáo cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với 3,35 (ba phẩy ba mươi lăm) gam chất ma tuý Methamphetamine còn lại sau giám định, đây là vật nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 3.500.000 đồng thu giữ của bị cáo cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với 01 (một) xe mô tô, nhãn hiệu HONDA - WAVE, màu sơn đỏ đen bạc, biển kiểm soát 24B2 - xxxxx; số khung: RLHJA3917KY460579; số máy: JA39E1331393 (đã qua sử dụng). Quá trình điều tra xác định: Chiếc xe trên là tài sản của chị Trần Thị Trà G (sinh năm 1988; nơi cư trú: Tổ 3, phường Kim Tân, thành phố C, tỉnh C). Ngày 21/11/2023 chị Trần Thị Trà G cho Trần Duy P mượn để làm phương tiện đi lại. Chị G không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của Trần Duy P. Ngày 4/2/2024, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C quyết định xử lý tài sản, đồ vật, tài liệu trả lại chiếc xe trên cho Trần Thị Trà G. Chị G đã nhận lại tài sản và không có ý kiến đề nghị gì.

Đối với hành vi vi phạm giao thông đường bộ của Trần Duy P ngày 21/11/2023. Cơ quan Công an thành phố C đã xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với người nam giới đã bán ma túy cho bị cáo Trần Duy P ngày 10/11/2023 tại khu vực đường gần quán bar FaceClub thuộc tổ 7, phường Duyên Hải, thành phố C, tỉnh C. Quá trình điều tra xác định: Bị cáo không biết tên, tuổi cụ thể, căn cước lai lịch của người nam giới. Ngoài lời khai của bị cáo ra không có tài liệu nào khác để chứng minh, làm rõ. Do vậy cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ được sẽ xử lý sau.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

 1.Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Trần Duy P phạm tội“Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.Phạt bị cáo Trần Duy P 05 (Năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/11/2023 2. Hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 5 Điều 249 phạt bị cáo Trần Duy P 5.000.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ 3,35 (ba phẩy ba mươi lăm) gam chất ma tuý Methamphetamine còn lại sau trích mẫu giám định cùng toàn bộ niêm phong cũ được tái niêm phong bằng bì thư in sẵn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh C. Trên một mặt của bì thư có ghi: “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ quá trình bắt quả tang Trần Duy P ngày 21/11/2023 tại tổ 19 phường Kim Tân, thành phố C, tỉnh C; Tạm giữ số tiền 3.500.000 đồng hiện đang gửi tại tài khoản 394909049863 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C mở tại kho bạc nhà nước C; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE (loại IphoneX), số IMEI: 354875092590816; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung, số IMEI: 352808092122357/01 (đã qua sử dụng) để đảm bảo thi hành án.

(Vt chứng trên thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/3/2024)

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết sô 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy đinh vê an phi , lê phi Toa an: Buộc bị cáo Trần Duy P phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/2024/HS-ST

Số hiệu:25/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về