Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 25/2024/HS-ST NGÀY 27/02/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 21/2024/TLST-HS ngày 26 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2024/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:

Đỗ Thế C, sinh ngày 12/02/1976, tại T;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: cư trú: tổ 02, xã P, thành phố T, tỉnh T; Chỗ ở: Phòng trọ thuê của nhà ông Khiếu Xuân Ph, ngõ 111, tổ 3-4, phường T, thành phố T, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Văn L(đã chết) và bà: Nguyễn Thị H(đã chết); vợ: Nguyễn Thị Xoan, sinh năm 1984; con: Có 01 con sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Quyết định số 448/QĐ-UBND ngày 18/4/2008 của Uỷ ban nhân dân thành phố T Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm - Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội 12 tháng. Chấp hành xong ngày 12/4/2009.

- Bản án số 97/2006/HSST ngày 09/8/2006 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T tuyên phạt Đỗ Thế C 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 08/3/2008 chấp hành xong hình phạt tù, ngày 24/11/2006 đã nộp xong 50.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Bản án số 69/2011/HSST ngày 16/5/2011 của Tòa án nhân dân thành phố T tuyên phạt Đỗ Thế C 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 11/4/2013 chấp hành xong hình phạt tù, ngày 24/10/2011 nộp xong 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/12/2023 đến 21/12/2023 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh T;

(Bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa).

Người chứng kiến:

- Ông Phan Văn H, sinh năm 1957; trú tại: Số nhà 05, ngõ 01, tổ 3-4, phường T, thành phố T, tỉnh T.

- Ông Khiếu Xuân Ph, sinh năm 1958; trú tại: Số nhà 08, ngõ 18, tổ 01-2, phường T, thành phố T, tỉnh T.

(Ông H và ông Ph đều vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 15/12/2023, Đỗ Thế C đi bộ từ nhà ra khu vực bến xe khách thành phố T, gặp và mua của một người nam giới khoảng 30 tuổi, không biết tên, địa chỉ được 02 túi ma túy, loại Methamphetamine được đựng trong 02 túi nilong trong suốt có mép cài, sau đó C cầm hai túi ma túy đem về phòng trọ của C. Tại đây, C mở ra kiểm tra thì thấy 01 túi nilong trong suốt có mép cài, bên trong có 07 túi nilong nhỏ trong suốt, bên trong mỗi túi đều chứa chất dạng tinh thể trong suốt, C cất giấu vào trong thùng gạo trong nhà trọ của C; C kiểm tra túi nilong trong suốt có mép cài còn lại, kích thước 3x5cm, thấy bên trong có chứa chất dạng tinh thể trong suốt, C cất túi nilong này vào trong túi quần bên phải C đang mặc. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày khi C đang đứng trước cửa phòng thuê trọ nhà ông Khiếu Xuân Ph, ngõ 111, tổ 3-4, phường T, thành phố T, tỉnh T thì bị tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh T phối hợp với Công an phường T, thành phố T phát hiện. Tại đây, trước sự chứng kiến của đại diện chính quyền địa phương và những người chứng kiến là ông Phan Văn H và ông Khiếu Xuân Ph, C đã tự giác lấy từ trong túi quần bên phải C đang mặc ra giao nộp cho tổ công tác 01 túi nilong trong suốt có mép cài, mở kiểm tra bên trong có chứa chất dạng tinh thể trong suốt và khai nhận đó là ma túy, loại Methamphetamine của C mua về để sử dụng cho bản thân, tổ công tác đã niêm phong vật chứng, ký hiệu M1 gửi đi giám định, kết quả giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 2,8774gam. Sau đó đã kiểm tra người C, không phát hiện thu giữ gì thêm. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và làm các thủ tục khác theo quy định.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh T, tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đỗ Thế C tại phòng trọ thuê của ông Khiếu Xuân Ph, ngõ 111, tổ 3-4, phường T, thành phố T, tỉnh T, thu giữ 01 túi nilong trong suốt có mép cài bên trong có 07 túi nilong trong suốt, bên trong 7 túi đều chứa chất dạng tinh thể trong suốt đã niêm phong vật chứng, ký hiệu M2 gửi đi giám định, kết quả giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,9051gam.

Bản kết luận giám định số 1804/KL-KTHS ngày 20/12/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: Mẫu M1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 2.8774 gam (Hai phẩy tám nghìn bảy trăm bảy mươi tư gam); Mẫu M2 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0.9051 gam (không phẩy chín nghìn không trăm năm mươi mốt gam). Methamphetamine STT:247 Danh mục IIC phụ lục kèm theo Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ.

Bản cáo trạng số 24/CT-VKSQP ngày 25/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh T truy tố Đỗ Thế C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Đỗ Thế C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như đã nêu trong bản Cáo trạng.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Đỗ Thế C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, phạt bị cáo từ 04 năm 03 tháng đến 04 năm 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 15/12/2023; phạt bổ sung bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng nộp ngân sách nhà nước. Ngoài ra, còn đề nghị về xử lý vật chứng, nghĩa vụ nộp án phí hình sự sơ thẩm và các vấn đề khác theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo không có ý kiến tranh luận với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đúng như nội dung Cáo trạng và phù hợp với các lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của người chứng kiến có trong hồ sơ vụ án. Ngoài ra còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản quản lý đồ vật, tài liệu; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T lập cùng ngày 15/12/2023; Kết luận giám định số 1804/KL-KTHS ngày 20/12/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T cùng toàn bộ tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Do đó có đủ cơ sở kết luận: Hồi 14 giờ ngày 15/12/2023, trước cửa phòng trọ thuê của nhà ông Khiếu Xuân Ph, sinh năm 1958, ngõ 111, tổ 3-4, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Bình, Đỗ Thế C đã có hành vi tàng trữ trái phép trên người 01 túi matúy, loại Methamphetamine, có khối lượng 2.8774 gam và cất dấu 07 túi ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0.9051 gam mục đích để sử dụng cho bản thân, bị tổ công tác Công an tỉnh T phối hợp với Công an phường T phát hiện, bắt quả tang. Tổng khối lượng ma túy C tàng trữ nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân là 3,7825 gam.

Vì vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều 249 Bộ luật Hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

…………….

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a) Có tổ chức;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

…………… o) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:

a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 05 kilôgam;

…………… 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng 05 kilôgam trở lên;

…………… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Việc Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố và kết luận bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thấy: Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự và an toàn xã hội tại địa phương. Mặc dù động cơ phạm tội xuất phát từ việc nghiện chất ma túy, mục đích để thỏa mãn cơn nghiện của bản thân, nhưng tệ nạn ma túy là hiểm họa của toàn xã hội, không những gây tác hại cho sức khỏe, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người mà còn là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ tác hại của ma túy, đã 02 lần bị xử phạt tù về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và 01 lần bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, song vẫn ngang nhiên thực hiện hành vi tàng trữ ma túy là thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Tội phạm bị cáo thực hiện thuộc loại tội rất nghiêm trọng, vì vậy bị cáo phải chịu mức hình phạt tương xứng với hành vi bị cáo đã gây ra.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo là người có nhân thân xấu nhiều lần vi phạm pháp luật đều liên quan đến ma tuý. Tuy nhiên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã khai báo trung thực toàn bộ hành vi phạm tội, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã phân tích trên thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định như mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp, nhằm cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo và đấu tranh, ngăn ngừa tội phạm về ma túy nói chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ lượng ma tuý tương đối lớn, do vậy Hội đồng xét xử cần áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo C khai mua của một người nam giới khoảng 30 tuổi không biết tên, địa chỉ tại khu vực bến xe khách thành phố T, nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[8] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo 02 túi ma túy, kết quả giám định kết luận là ma túy loại Methamphetamine và hoàn trả mẫu vật sau giám định. Xét thấy đây là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, do đó cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đỗ Thế C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, phạt bị cáo Đỗ Thế C 04 (bốn) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ (15/12/2023). Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) nộp ngân sách nhà nước.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy gồm: 2,5728 gam (hai phẩy năm nghìn bảy trăm hai mươi tám gam) ma túy, loại Methamphetamine quản lý của Đỗ Thế C còn lại sau khi lấy mẫu giám định và toàn bộ bao gói ký hiệu M1; 0,8642 gam (không phẩy tám nghìn sáu tram bốn mươi hai gam) ma túy, loại Methamphetamine quản lý khi khám xét chỗ ở của Đỗ Thế C còn lại sau khi lấy mẫu giám định và toàn bộ bao gói ký hiệu M2 đều được niêm phong trong 02 phong bì đều ghi số 1804/KL-KTHS của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T hoàn lại.

Vật chứng trên đang được Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh T quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh T lập hồi 10 giờ ngày 26/01/2024.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Đỗ Thế C phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự, bị cáo Đỗ Thế C có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (27/02/2024).

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/2024/HS-ST

Số hiệu:25/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về