Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA BỂ - TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 25/2022/HS-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2022/HSST, ngày 09 tháng 9 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2022/QĐXXST-HS, ngày 19 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Hoàng Đức Th (Tên gọi khác: Không) - Sinh ngày 06/02/1989 tại huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Nơi cư trú: TK, thị trấn C, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn T và bà Ma Thị T; vợ, con: chưa có; tiền sự: Không. Tiền án: Ngày 06/9/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Ba Bể xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 19/2019/HSST. Nhân thân: Ngày 14/3/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Ba Bể xử phạt 6 tháng tù cho hưởng treo về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 14/2017/HSST. Bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 19/9/2022 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Hoàng Văn , sinh năm 1965. Cư trú tại: T, thị trấn C, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt – có đơn xin xét xử vắng mặt.

* Người chứng kiến:

- Ông Hoàng Văn D , sinh năm 1993. Vắng mặt.

- Ông Nông Văn H, sinh năm 1979. Vắng mặt.

Đều trú tại: TK, thị trấn C, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.

NHẬN THẤY

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 13h 45’ ngày 15/6/2022 tại Tiểu khu 2, thị trấn C, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, Tổ công tác Công an thị trấn C, huyện Ba Bể lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Hoàng Đức T về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ và niêm phong 01 (một) gói ma túy, loại Heroine vào phong bì ký hiệu A1 (Tiến hành cân xác định khối lượng được là 0,14 gam, niêm phong 0,14 gam chất bột màu trắng vào phong bì ký hiệu B1 gửi giám định); tạm giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM – Star 110, BKS 97F3 – 1463. Tại cơ quan điều tra Hoàng Đức T khai nhận: Bản thân là người nghiện ma túy nên khoảng 13h ngày 15/6/2022, Thiện điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 97F3 – 1463 của ông Hoàng Văn T đi từ nhà ở tiểu khu 8, thị trấn C đến cầu treo thuộc thôn M, xã Th, huyện Ba Bể với mục đích để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến nơi, T nhìn thấy một người đàn ông không quen biết có biểu hiện là người nghiện chất ma túy nên hỏi mua ma túy thì người đàn ông đó đồng ý. Th đưa cho người đàn ông số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng), người đó cầm tiền đi khoảng 10 đến 15 phút sau thì quay lại và đưa cho T 01 (một) gói ma túy. Mua được ma túy, T cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe mô tô đi tìm chỗ vắng để sử dụng. Khi đến đoạn đường phía sau trường Trung học phổ thông huyện Ba Bể thuộc t2, thị trấn C, huyện Ba Bể, Thiện chưa kịp sử dụng ma túy thì bị tổ công tác của Công an thị trấn C, huyện Ba Bể dừng xe kiểm tra. Do lo sợ, Th đã thả gói ma túy trong lòng bàn tay trái xuống đất và dùng bàn chân phải dẫm lên để che giấu. Sau khi được cơ quan công an giải thích, Th tự nguyện chỉ chỗ cất giấu ma túy. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ 01 gói chứa chất dạng cục, bột màu trắng nghi là ma túy heroine của T, có khối lượng là 0,14 gam (không phẩy một bốn gam). Tại Kết luận giám định số: 113/KTHS-MT, ngày 22/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất màu trắng dạng cục và bột trong phong bì ký hiệu B1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,14 gam (Không phẩy một bốn gam).

Tại bản cáo trạng số: 22/CT-VKSBB ngày 08/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Hoàng Đức Th về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Điều luật có nội dung:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a)................

c) Heroine..... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

.............

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.” Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Bể giữ nguyên nội dung truy tố đối với bị cáo. Đề nghị tuyên bố bị cáo Hoàng Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249; Điều 38; Điều 50, điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; điêm h, khoản 1, Điều 52 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/9/2022, được trừ đi thời hạn tạm giữ từ ngày 15/6/2022 đến ngày 23/6/2022.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47/BLHS; Điều 106/BLTTHS.

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong ký hiệu B2 bên trong có chứa phong bì, giấy gói cũ vụ Hoàng Đức T; 01(một) phong bì mẫu hoàn trả đã niêm phong ký hiệu T122 bên trong có chứa: Mẫu vật còn lại sau giám định và phong bì, bao gói cũ. Tình trạng phong bì niêm phong còn nguyên vẹn. Mặt trước phong bì có ghi “Vụ Hoàng Đức Th (1989) tàng trữ trái phép chất ma túy”, ký hiệu “T122”, mặt sau có 03 chữ ký không đọc được và 01 hàng chữ “Bùi Minh Th” cùng 02 dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn.

- Trả lại cho Hoàng Văn T: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu SYM Star 110, BKS 97F3 – 1463, xe cũ đã qua sử dụng.

* Về án phí: Áp dụng Điều 136/BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo Th thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như Viện kiểm sát truy tố và xin được giảm nhẹ hình phạt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Văn T vắng mặt, nhưng trong đơn đề nghị xét xử vắng mặt yêu cầu được nhận lại xe mô tô nhãn hiệu SYM Star 110, BKS 97F3 – 1463, xe đã qua sử dụng.

XÉT THẤY

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt), nhưng tại cơ quan điều tra và đơn đề nghị xét xử vắng mặt đã thể hiện đầy đủ lời khai, ý kiến, quan điểm của họ, việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử của Tòa án. Căn cứ khoản 1 Điều 292 của Bộ luật tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt họ.

[2]. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo đều khai: Hồi 13h 45’ ngày 15/6/2022 tại TK, thị trấn C, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, Hoàng Đức T đã có hành vi cất giữ, cất giấu bất hợp pháp 0,14 gam (Không phẩy một bốn gam) chất ma túy, loại Heroine. Mục đích Hoàng Đức T tàng trữ trái phép chất ma túy là phục vụ cho nhu cầu sử dụng chất ma túy của bản thân, ngoài ra không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy có đủ căn cứ xác định việc truy tố, xét xử bị cáo Hoàng Đức Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Xét tính chất hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, làm gia tăng tội phạm, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự địa phương, cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[3]. Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo thấy: Bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền án (Bản án số 19/2019/HSST, ngày 06/9/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Ba Bể xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng bị cáo chưa thi hành xong phần trách nhiệm dân sự, nên chưa được xóa án tích). Vì vậy, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” quy định tại điểm h, khoản 1, Điều 52/BLHS. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có ông nội là Hoàng Văn B đã có công trong thời kỳ kháng chiến được tặng thưởng “Huân chương chiến thắng hạng ba” nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4]. Về nguồn gốc số ma túy, bị cáo khai mua với một người đàn ông không quen biết tại khu vực thôn M, xã T vào ngày 15/6/2022, nhưng do bị cáo không biết họ, tên, địa chỉ của người đàn ông này nên không có cơ sở để điều tra xác minh.

[5]. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Hoàng Văn T: Quá trình điều tra, xác minh làm rõ xác định được: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu SYM Star 110, BKS 97F3 – 1463, xe đã qua sử dụng thuộc quyền sử hữu của Hoàng Văn T (bố đẻ của bị cáo), ngày 15/6/2022 bị cáo sử dụng xe đi mua ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy thì ông T không biết. Xác định ông Tấn và chiếc xe mô tô không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Tn, ông T đề nghị được nhận lại tài sản là đúng quy định của pháp luật, nên cần trả lại xe mô tô nhãn hiệu SYM Star 110, BKS 97F3 – 1463 cho ông Hoàng Văn T.

[6]. Về vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong ký hiệu B2 bên trong có chứa phong bì, giấy gói cũ vụ Hoàng Đức Th; 01(một) phong bì mẫu hoàn trả đã niêm phong ký hiệu T122 bên trong có chứa: Mẫu vật còn lại sau giám định và phong bì, bao gói cũ. Tình trạng phong bì niêm phong còn nguyên vẹn. Mặt trước phong bì có ghi “Vụ Hoàng Đức Th (1989) tàng trữ trái phép chất ma túy”, ký hiệu “T122”, mặt sau có 03 chữ ký không đọc được và 01 hàng chữ “Bùi Minh Th” cùng 02 dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn.

- Trả lại cho Hoàng Văn T: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu SYM Star 110, BKS 97F3 – 1463, xe cũ đã qua sử dụng.

[7]. Hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập, không có tài sản, bản thân nghiện chất ma túy nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8]. Về án phí: Căn cứ Điều 136/BLTTHS; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố bị cáo Hoàng Đức T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

* Căn cứ điểm c, khoản 1, Điều 249; Điều 38; Điều 50; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; điểm h, khoản 1, Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Hoàng Đức T: 16 (mười sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/9/2022, được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 15/6/2022 đến ngày 23/6/2022.

* Về vật chứng: Áp dụng Điều 47/BLHS; Điều 106/BLTTHS.

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong ký hiệu B2 bên trong có chứa phong bì, giấy gói cũ vụ Hoàng Đức Th; 01(một) phong bì mẫu hoàn trả đã niêm phong ký hiệu T122 bên trong có chứa: Mẫu vật còn lại sau giám định và phong bì, bao gói cũ. Tình trạng phong bì niêm phong còn nguyên vẹn. Mặt trước phong bì có ghi “Vụ Hoàng Đức Th (1989) tàng trữ trái phép chất ma túy”, ký hiệu “T122”, mặt sau có 03 chữ ký không đọc được và 01 hàng chữ “Bùi Minh Th” cùng 02 dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn.

- Trả lại cho Hoàng Văn T, sinh năm 1965. Cư trú tại: T, thị trấn C, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu SYM Star 110, BKS 97F3 – 1463, xe đã qua sử dụng.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 08/9/2022 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ba Bể và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Bể) * Về án phí: Căn cứ Điều 136/BLTTHS; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/2022/HS-ST

Số hiệu:25/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Bể - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về